Category Archives: Chuyện đời thường

Nhân Quả là gì?

. Luật nhân quả không có người thi hành bắt bớ, phạt vạ hoặc giam cầm tù tội ai cả, nhưng nó phán xét rất công minh và xử phạt rất công lý do toà án lương tâm của mỗi người.

SakyAmuniBuddha243
Nhân quả theo chữ Hán có nghĩa là hạt giống và bông trái. Ở đây chúng ta nên hiểu nghĩa nhân quả là hành động và kết quả của hành động. Để dễ hiểu, chúng tôi cho một ví dụ: Nếu chúng ta lấy một hạt cam gieo trồng xuống đất, hạt cam lên thành cây cam, cây cam lớn lên cho ta những quả cam ngọt, đó là nhân và quả của cây cam. Nếu ta lấy một hạt chanh đem ươm trồng, hạt chanh lên thành cây và cho những trái chanh chua, đó là nhân và quả của cây chanh. Hai ví dụ trên cho chúng ta thấy nhân nào thì quả nấy, hạt cam sẽ cho trái cam ngọt, hạt chanh sẽ cho trái chanh chua.

Hành động của chúng ta cũng vậy, nếu hành động ác là nhân ác, kết quả của hành động ác thì chúng ta sẽ phải thọ chịu quả khổ đau như chúng tôi đã nói ở trên. Ngược lại, hành động thiện sẽ mang đến hạnh phúc, an vui cho chúng ta. Để làm sáng tỏ luật nhân quả, chúng tôi xin lập lại:

Nếu chúng ta làm một điều ác, thì kết quả sẽ đem đến không những cho chúng ta, mà còn cho nhiều người khác những sự khổ đau, phiền muộn, tức giận, hận thù, oán ghét, tạo ra nhiều điều tội lỗi, v.v… Nếu chúng ta làm một điều thiện, thì kết quả sẽ mang đến không những cho chúng ta, mà còn cho nhiều người khác sự an vui, hạnh phúc.

Do hành động chúng ta làm ra, thì chúng ta phải chịu lấy trách nhiệm về hành động đó, nên gọi là luật. Chứ ở đây không có một Đấng Tạo Hoá, một ông Ngọc Hoàng, Thượng Đế, hay bất cứ một con người nào chế ra định luật nhân quả này, để bắt buộc chúng ta phải thi hành. Luật nhân quả không có người thi hành bắt bớ, phạt vạ hoặc giam cầm tù tội ai cả, nhưng nó phán xét rất công minh và xử phạt rất công lý do toà án lương tâm của mỗi người. Vì thế, luật nhân quả rất công bằng, không thiên vị một ai. “Ai làm ác thì phải gặt lấy quả khổ đau”, khi thời tiết nhân duyên đến.

Luật nhân quả này không có một người nào bắt buộc chúng ta thi hành được, mà chỉ có sự khổ đau và sự an vui của chúng ta mới bắt buộc chúng ta phải thi hành nó. Bởi vì, con người ai cũng muốn sống an vui, hạnh phúc, chứ không có mấy ai muốn sống khổ đau bao giờ. Vì thế, chúng ta tự bắt buộc chúng ta làm thiện, sống thiện để sống được an vui, hạnh phúc. Chính vì vậy, chúng ta mới thấy được lòng người sợ khổ, ưa vui. Còn nếu ngược lại, chúng ta ta không làm thiện, không sống thiện, thì sự an vui, hạnh phúc sẽ không đạt thành, và vì vậy chúng ta phải sống khổ đau.

Luật mà không có ai có quyền thi hành, bắt buộc phạt vạ mình, mà mình phải chịu sự trừng phạt của luật ấy rất công minh chánh trực như trên chúng tôi đã nói: “Luật nhân quả là một phép tắc được quy định theo sự hoạt động tự nhiên của vũ trụ, để quân bình trật tự an toàn của các hành tinh trong không gian”. Vì thế, luật nhân quả là một đạo luật của vũ trụ được đặt ra để quân bình trật tự vạn vật trong vũ trụ.

(Trích từ sách “Đạo đức làm người” tập 2)

Lời trái tim nói : Đọc và Cảm

2015 - 1

Hồi nhỏ thằng nhỏ vốn chơi dại
Bị que đâm…một bên mắt bị mù
Mẹ nó nghèo tìm khắp nơi chạy chữa
Lấy mắt mình thay vào mắt con thơ

Lên lớp 6 nó qua tuổi mộng mơ
Nghe bạn bè nó bất ngờ xa cách
Vì mẹ xấu nên con trai mất mặt
Mắt đã mù lại gầy quắt thế kia

Theo thời gian tình cảm cứ chia lìa
Khiến mẹ nó phải đầm đìa nước mắt
Nhưng thân gầy vẫn từng đêm cóp nhặt
Gạo từng nhà đóng tiền học cho con

Bao nhiêu năm bà vẫn ngậm bồ hòn
Hôm tiễn biệt nhìn người con xa khuất
Bay đến” SING” hết song rồi đến” NHẬT”
Trong thâm tâm bà nghĩ mất con rồi…

Tám năm trời vất vả đổ mồ hôi
Bà giành dụm đủ tiền rồi cơ đấy
Ra nước ngoài chỉ mong một lần thấy
Người con khờ của năm ấy yên vui

Đớn đau thay bà lại phải ngậm ngùi
Ẵm cháu trai trong niềm vui rặng rỡ
Thì bỗng dưng người con trai cùng vợ
Nỡ vô tình trách quở nói ” BÀ ĐIÊN ”

Nước mắt rơi trên đôi mắt mẹ hiền
Người con kia rút đồng tiền trong ví
Bà đi đi kẻo người ta dị nghị
Thôi lần sau đừng đến nữa làm gì…

Ứa nghẹn ngào mắt lệ bước ra đi
Hai năm sau ốm đau thì bà mất
Nghĩ đến con tim gan mà ứa mật
Cảnh cút côi bà đã khuất mây trời

Mấy hôm sau người con trở về rồi
Nhận công tác, khảo sát nơi gần đó
Khẽ vô tình bước qia nơi thuở nhỏ
Hỏi xóm giềng bà đó sống ra sao

Vừa kể… hàng xóm vừa nghẹn ngào
À bà ấy… thì biết bao người thích
Chồng bỏ đi nên sống trong bi kịch
Nuôi con khờ bà nặng trĩu đôi vai

Bà ấy thì… có một đứa con trai
Vì nghịch dại người con trai chột mắt
Quá thương con lòng bà đau quạnh thắt
Lấy mắt mình thay cho mắt con khờ…

Nghe đến đây người cậu ấy cứng đơ
Hỏi gấp hơn… người giờ ở đâu đấy ?
Hàng xóm kia sót xa trả lời vậy
Bà ấy ư ? Mất được mấy hôm rồi !

Người con trai khóc nức nở bồi hồi
Chạy thật nhanh về cái nơi thuở nhỏ
Ôm hình mẹ… khóc bên bàn thờ gỗ
Mẹ…mẹ ơi !!! Con trai biết lỗi rồi…!(st)

P/S : Đừng để lời xin lỗi muộn màng !
·

Oán hận người khác thực ra là đang cầm tù chính bản thân mình

Khi oán giận ai đó, nội tâm của bạn chính là đã tạo ra một “căn phòng đen tối”, nó khóa kín tâm hồn bạn, khiến bạn mất đi sức sống và không cách nào thoát ra được, trừ khi có một sự thay đổi…

Oán hận người khác thực ra là đang cầm tù chính bản thân mình

Có một cô gái trẻ tuổi luôn mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Trong tất cả các giấc mơ của cô đều có chung một cảnh tượng. Đó là, rất nhiều người bị nhốt trong một căn phòng đen tối. Trên cửa phòng có một khóa sắt đã bị gỉ. Mọi người đều ở trong căn phòng cầu xin.

Sau mỗi lần tỉnh giấc, cô gái đều cảm thấy trong lòng vừa bồn chồn sợ hãi vừa buồn bực. Ít lâu sau, cô gái bị mắc bệnh, trong lòng luôn thấy hồi hộp, tức ngực và dễ cáu giận.

Thời gian sau, cô gái nghe nói có một vị hòa thượng ở địa phương khác rất giỏi về trị liệu những căn bệnh kỳ lạ và phức tạp. Thế là cô liền trèo đèo lội suối đi tìm vị hòa thượng để cầu cứu.

Khi cô gái gặp được vị hòa thượng, cô kể lại những giấc mơ kỳ lạ và căn bệnh mà cô mắc phải cho vị hòa thượng nghe.

Vị hòa thượng liền nói: “Bệnh này của con quả thực không khó chữa. Ta cho con một chiếc chìa khóa vàng, con hãy đeo ở trước ngực của mình. Hãy nhớ kỹ, khi nào nằm mơ thấy giấc mơ kỳ lạ kia, con hãy dùng chiếc chìa khóa này mở khóa cửa của căn phòng đó ra để những người ở bên trong đó được ra ngoài. Chỉ cần như vậy, bệnh của con cũng sẽ lập tức khỏi ngay”.

Cô gái vui mừng nhận chiếc chìa khóa và nói: “Con xin tạ ơn hòa thượng!”

Sau khi cầm chiếc chìa khóa ra về, cô gái luôn đeo nó bên mình như lời vị hòa thượng căn dặn. Quả nhiên, chỉ ít ngày sau, cô lại nằm mơ thấy giấc mơ kỳ lạ kia. Lần này, cô gái tiến lại sát căn phòng và nhìn. Cô phát hiện ra, trong căn phòng tối tăm ấy, đều là những người mà cô căm ghét. Có người phụ nữ đã từng mắng nhiếc cô rất thậm tệ. Còn có mấy người hàng xóm đã từng bắt nạt, ức hiếp cô. Ở góc bên phải của căn phòng là mấy người bạn đã từng đẩy cô xuống rãnh nước bẩn khi cô còn nhỏ khiến cô suýt chết đuối.

Đột nhiên cô nhìn thấy một chú chó bị què chân và cô thắc mắc: “Tại sao lại có một con chó bị què chân ở đây?” Rồi cô nhớ lại, đó là chú chó hung dữ luôn xuất hiện trên con đường cô đến trường khiến cô sợ hãi. Tất cả những người trong căn phòng tối tăm kia đều là những người từng làm hại cô, làm tổn thương cô. Thế là cô nảy ra ý nghĩ: “Mình sẽ không mở cửa cho những người này. Họ đáng phải chịu tội!” 

Trong khi những người bị nhốt trong căn phòng tối tăm kia vẫn không ngừng cất tiếng van xin cầu cứu thì cô gái lại thu hồi chiếc chìa khóa của mình với vẻ ung dung tự đắc.

Oán hận người khác thực ra là đang cầm tù chính bản thân mình

 

Thả tự do cho những người trong căn phòng tối tăm kia, cũng chính là thả tự do cho chính bản thân mình. (Ảnh: Internet)

Nửa năm trôi qua, bệnh tình của cô gái càng lúc càng trầm trọng hơn. Cô gái lại đi đến chỗ vị hòa thượng để cầu xin sự giúp đỡ. Vị hòa thượng nói: “Chỉ còn một cơ hội cuối cùng này mà con không tận dụng thì chiếc chìa khóa vàng cũng không thể cứu được con nữa đâu. Nếu đêm nay con mơ thấy giấc mơ kia thì hãy đem chiếc chìa khóa này mở cái khóa kia ra trước khi nó bị gỉ không thể mở ra được thì bệnh tình của con sẽ khỏi. Bằng không thì bệnh của con sẽ vô phương cứu chữa!”

Nghe xong lời căn dặn của vị hòa thượng, cô gái hạ quyết tâm thực hiện bằng được.

Quả nhiên, ngay đêm hôm đó cô gái lại mơ thấy căn phòng tối và những người bị nhốt ở bên trong đang cầu cứu. Cô nhanh chóng mang chiếc chìa khóa vàng của mình đến để mở chiếc khóa kia ra.

Khi cánh cửa vừa mở ra, tất cả những người bên trong đều chen lấn đi ra ngoài. Cô gái chợt nhìn thấy một người ở trong góc cùng của căn phòng. Càng đi lại gần, cô mới nhận ra người ở trong góc cùng kia chính là mình, gầy yếu và đáng thương. Ngay khi cô vừa từ góc trong cùng của căn phòng bước ra khỏi cửa thì căn phòng đổ sập xuống, ánh nắng mặt trời chiếu rọi khiến cô gái bừng tỉnh, toàn thân cô vã mồ hôi…

Lúc này, giọng nói vang vọng truyền đến tai cô: “Cầm tù người khác cũng chính là cầm tù bản thân mình. Khóa chặt quá khứ lại cũng chính là làm gỉ máu trái tim mình. Oán hận và phiền não chất chồng sẽ thành một căn phòng đen tối. Mở được cánh cửa trái tim sẽ khiến ánh mặt trời chiếu rọi”.

Sau ngày hôm đó, bệnh tình của cô gái cũng khỏi hẳn. Hơn nữa, sắc mặt của cô cũng trở nên hồng hào rạng rỡ, đôi mắt tươi vui vô cùng xinh đẹp.

Trong nội tâm của bạn có “căn phòng đen tối” đó hay không? Trong “căn phòng đen tối” đó có người mà bạn căm hận hay không? Nếu như trong tay bạn có chiếc chìa khóa vàng kia, bạn có nguyện ý mở khóa để thả mọi người ra không? Thả tự do cho những người trong căn phòng tối tăm kia, cũng chính là thả tự do cho chính bản thân mình đấy!

Theo Daikynguyenvn

Triết lý sâu sắc đằng sau 3 chú khỉ “che mắt, che tai, che miệng”

Ý nghĩa đằng sau hình tượng 3 chú khỉ “không nhìn, không nghe, không nói” quả thực rất uyên thâm và sâu sắc, là một lẽ sống đẹp trong cuộc đời.

Triết lý sâu sắc đằng sau 3 chú khỉ “che mắt, che tai, che miệng”

Trong cuộc sống thường ngày, có thể ở đâu đó chúng ta đã nhìn thấy hình ảnh 3 chú khỉ che mắt, che tai, che miệng. Thoạt đầu, ai không hiểu sâu kỹ sẽ nghĩ bộ tượng này “đại khái” khuyên chúng ta “không nhìn, không nghe, không nói” những điều xấu xa trong cuộc sống, rằng chúng ta hãy sống cuộc sống của mình, đừng quan tâm đến chuyện người khác.

Thậm chí, có thể ai đó còn tưởng rằng bộ tượng này khuyên con người sống “yếm thế”, “không nhìn, không nghe, không nói”, mặc kệ những gì “chướng tai, gai mắt” đang xảy ra xung quanh, sống bàng quan, “thây kệ” tất cả.

Tuy vậy, ý nghĩa của hình tượng 3 chú khỉ “không nhìn, không nghe, không nói” này quả thực rất uyên thâm và sâu sắc, là một lẽ sống đẹp trong cuộc đời.

Trong cuộc sống mỗi người, nhiều khi chúng ta phải chứng kiến những điều sai trái, thị phi, nhiễu nhương, nếu ai cũng chỉ an phận “không nhìn, không nghe, không nói”, thì xã hội, cộng đồng, gia đình và bản thân cuộc đời mỗi người rồi sẽ đi về đâu? Và nếu cứ tự “bịt tai, bịt mắt, bịt miệng” mình như thế cả cuộc đời, thì cuộc sống liệu có còn ý nghĩa?

Triết lý sâu sắc đằng sau 3 chú khỉ “che mắt, che tai, che miệng”

Luận xung quanh bức tượng 3 chú khỉ “không nhìn, không nghe, không nói” này có nhiều lý giải.

Lý giải thứ nhất cho rằng nguồn gốc của bộ tượng này bắt nguồn từ Ấn Độ vài ngàn năm trước. Khởi nguyên của loạt tượng này là từ thần Vajrakilaya – một vị thần có 6 tay chuyên phá tan mọi trở lực.

Thần Vajrakilaya đôi khi được khắc họa trong hình ảnh lấy tay bịt tai, mắt và miệng, nhằm răn dạy chúng sinh không nhìn bậy, không nghe bậy, không nói bậy.

Lý giải thứ hai cho rằng bộ tượng bắt nguồn từ tư tưởng “tam không” của Nhật Bản. Tại Nhật, ở đền Toshogu, thuộc thành phố Nikko, cho tới nay vẫn còn lưu giữ được một bức điêu khắc cổ khắc họa 3 chú khỉ được đặt tên là Mizaru, Kikazaru và Iwazaru với ý nghĩa lần lượt là “bịt mắt”, “bịt tai”, “bịt miệng”, do nghệ nhân Hidari Jingoro nổi tiếng thực hiện từ thế kỷ 17.

Triết lý sâu sắc đằng sau 3 chú khỉ “che mắt, che tai, che miệng”

Thực tế, cái đuôi “zaru” trong tên của cả 3 chú khỉ gần âm với từ “saru” trong tiếng Nhật nghĩa là con khỉ. Con che mắt tên Mizaru hàm ý rằng “tôi không nhìn điều xấu”. Con bịt miệng tên Iwazaru hàm ý “tôi không nói điều xấu”. Con bịt tai tên Kikazaru hàm ý “tôi không nghe điều xấu”.

Ngoài ra, người Nhật còn có thêm một hàm ý sâu xa hơn gửi gắm trong “ba ông khỉ thông thái”, đó là “bịt mắt để dùng tâm mà nhìn”, “bịt tai để dùng tâm mà nghe”, “bịt miệng để dùng tâm mà nói”.

Khi tâm ở trạng thái tĩnh, không bị rối loạn bởi những điều xấu do mắt nhìn thấy, tai nghe thấy, miệng nói ra, thì tự khắc tâm phát sinh điều thiện và người ta sẽ sống “có tâm”, sẽ nhìn – nghe – nói và làm những điều “có tâm”.

Triết lý sâu sắc đằng sau 3 chú khỉ “che mắt, che tai, che miệng”

Cuối cùng, tư tưởng “tam không” này cũng mang nhiều sự đồng điệu với tư tưởng của Khổng Tử, khi học trò Nhan Uyên hỏi thầy về đức nhân, Khổng Tử đã trả lời rằng: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” (nghĩa là “không nhìn điều sai, không nghe điều bậy, không nói điều trái, không làm điều quấy”).

Hình ảnh bộ khỉ “tam không” còn nhắc nhở chúng ta về “tâm viên, ý mã” (tâm nhảy nhót như khỉ, ý nghĩ lồng lộn như ngựa), rằng chúng ta phải biết kiểm soát cái tâm vọng động, nó vốn chẳng khác gì con khỉ thích chạy lăng xăng.

“Tâm viên” là chỉ tâm thế không khi nào được yên, lộn xộn, rối rắm, suy nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, đó là “tâm viên”. Tâm này sẽ đưa con nguời đến loạn động, phát sinh ra đủ thứ phiền não…

Muốn không rơi vào cảnh “tâm viên”, không tự làm khổ nội tâm chính mình, nhất là trong bối cảnh đời sống đương đại, khi luồng thông tin phát sinh mỗi ngày nhiều như vũ bão, con người càng cần học ở “ba ông khỉ thông thái”, để không khổ vì nghe chuyện thiên hạ, vì nói chuyện thế gian và nhìn ngó chuyện người khác.

Triết lý sâu sắc đằng sau 3 chú khỉ “che mắt, che tai, che miệng”

Bản chất của con người vốn là sự tò mò nên bất cứ chuyện nào, về bất cứ ai, dù không liên quan thì cũng muốn nghe, muốn thấy, để kể lại, bình luận với người khác. Tuy vậy, việc nghe – nhìn – nói về chuyện của người khác chỉ khiến bản thân mất thời gian và trở nên xấu xí. Xấu ở đây là ở cái tâm, bởi soi mói chuyện người khác thường không mấy khi chăm chú vào điều tốt đẹp.

Bởi vậy, nghe – nhìn – nói đều cần phải có chọn lọc, thì mới hy vọng giữ được cho mình cái tâm bình lặng. Khi sự nhận thức về thế giới xung quanh thông qua nghe – nhìn – nói trở nên tinh tế, sâu sắc từ trong tâm, con người ta sẽ quan sát, đánh giá được mọi vấn đề một cách vẹn toàn. Hình ảnh “bộ khỉ tam không” mang những giáo lý sâu sắc như vậy…

 (Sưutầm )

10 câu chuyện ngắn về bài học làm người giản đơn mà sâu sắc

Cuộc sống đôi khi thật đơn giản chứ không phải là điều gì cao siêu hết. Đơn giản chính là trí huệ, cuộc sống đơn giản sẽ mang đến niềm vui, hạnh phúc mà người ta không ngờ tới…

 bài học làm người giản đơn mà sâu sắc

Câu chuyện 1. Một người đi tìm việc làm, trên hành lang đến phòng phỏng vấn thuận tay nhặt mấy tờ giấy rác dưới đất và bỏ vào thùng.
Vị phụ trách phỏng vấn vô tình nhìn thấy, bèn quyết định nhận anh vào làm việc.

Hóa ra để được tưởng thưởng thật là đơn giản, chỉ cần tập rèn luyện những thói quen tốt.

Câu chuyện 2. Cậu bé nọ học việc trong một tiệm sửa xe đạp. Một ngày, có người khách đem đến một chiếc xe đạp hư. Cậu không những sửa lại cho thật tốt, mà còn lau chùi cho chiếc xe cho sạch đẹp.

Những người học việc khác cười nhạo cậu bé dại dột, đã chẳng được thêm chút tiền công nào lại còn tốn sức.
Hai ngày sau, người khách trở lại, thấy chiếc xe đạp vừa tốt vừa đẹp như mới mua, liền đưa cậu bé về hãng của ông ta để làm việc với mức lương cao.

Hóa ra để thành đạt trong đời thật đơn giản, chỉ cần được làm điều mình thích, vất vả một chút cũng chẳng sao.

Câu chuyện 3. Một em bé nói với mẹ: “Mẹ ơi, hôm nay mẹ rất đẹp!”

Bà mẹ hỏi: “Ơ, sao con lại khen mẹ như thế?”

Em bé trả lời: “Bởi vì hôm nay mẹ… không nổi giận!”.

Hóa ra muốn có một vẻ đẹp khả ái cũng thật đơn giản, chỉ cần không nổi giận là được.

Câu chuyện 4. Có ông chủ bắt con trai làm việc vất vả ngoài đồng.

Bạn bè nói với ông ta: “Ông không cần phải bắt con trai khó nhọc như thế, giống cây này tự nhiên cũng phát triển.” Ông chủ nói: “Tôi dạy dỗ con cái chứ đâu phải tôi chăm cây công nghiệp”.

Hóa ra răn dạy con cái rất đơn giản, cứ để tụi nó chịu khổ chút xíu.

Câu chuyện 5. Một huấn luyện viên quần vợt nói với học sinh: “Làm thế nào tìm được quả bóng rơi vào đám cỏ?

Một người nói: “Bắt đầu tìm từ trung tâm đám cỏ”.

Người khác nói: “Bắt đầu tìm từ nơi chỗ trũng nhất”.

Kẻ khác lại nói: “Bắt đầu tìm từ điểm cao nhất”.

Đáp án huấn luyện viên đưa ra là: “Làm từng bước, từ đám cỏ đầu này đến đầu kia”.

Hóa ra phương pháp để tìm thành công thật đơn giản, cứ tuần tự, đừng nhảy vọt từ số 1 đến số 10.

Câu chuyện 6. Một cửa hàng đèn thường sáng trưng, có người hỏi: “Tiệm của anh dùng loại đèn nào vậy, dùng rất bền”.

Chủ cửa hàng nói: “Đèn bị hư hoài đấy chứ, chẳng qua là chúng tôi thay ngay khi nó bị hư thôi”.

Hóa ra để duy trì ánh sáng thật đơn giản, chỉ cần dám thay đổi là được.

Câu chuyện 7. Con nhái ở bên ruộng nói với con nhái ở bên vệ đường: “Anh ở đây quá nguy hiểm, dọn qua chỗ tôi mà ở”.

Con nhái ở bên đường trả lời: “Tôi quen rồi, dọn nhà làm chi cho vất vả”.

Mấy ngày sau nhái ở bên ruộng đi thăm nhái bên đường, nó đã bị xe cán chết, xác nằm bẹp dí.

Hóa ra để được an toàn thật đơn giản, chỉ cần tránh xa lười biếng.

 

Câu chuyện 8. Có một con gà nhỏ đang tìm cách phá vỏ trứng để chui ra, nó chần chừ e ngại thò đầu ra ngoài ngó nghiêng xem xét sự đời. Đúng lúc đó, 1 con rùa đi ngang qua, gánh trên mình chiếc mai nặng nề.

Thấy thế, con gà nhỏ quyết định rời bỏ cái vỏ trứng ngay lập tức.

Hóa ra muốn thoát ly gánh nặng cũng thật đơn giản, dẹp bỏ cố chấp thành kiến là được.

Câu chuyện 9. Có mấy em bé rất muốn làm thiên thần; Thượng Đế cho mỗi em một chân đèn và dặn trong lúc chờ Ngài trở lại, hãy giữ cho mấy cái chân đèn luôn sáng bóng.

Một ngày, hai ngày, rồi 1 tuần trôi qua, không thấy Thượng Đế quay trở lại. Tất cả các bé đều bỏ cuộc.

Chỉ có một em bé vẫn lau chùi chân đèn sáng bóng dù cho Thượng Đế không đến. Mọi người đều chê em dại.

Kết quả, chỉ có em được trở thành thiên thần.

Hóa ra để làm thiên thần thật đơn giản, chỉ cần có tấm lòng thật thà tận tụy.

Câu chuyện 10. Chàng thanh niên đến xin làm môn đệ một vị thần.

Đúng lúc ấy, 1 con nghé chui lên từ vũng lầy, toàn thân lấm đầy bùn dơ bẩn.

Vị thần nói với chàng thanh niên: “Con tắm rửa cho nó dùm ta”.

Chàng kinh ngạc: “Con đi học chứ đâu đi chăn trâu?”.

Vị thần nói: “Con không chăm chỉ vâng lời, thì làm môn đệ của ta thế nào được.”

 

Hóa ra biến thành thần thật đơn giản, chỉ cần một lòng thành thật phục vụ.

 

Hóa ra cuộc sống cũng rất đơn giản, chỉ cần có thể hiểu được “trân quý, biết đủ, cám ơn” là anh đã có đầy đủ màu sắc của cuộc sống.

Tuệ Tâm, sưu tầm tinhhoa

Chuyện sâu sắc về cái giếng cũ: Phú quý kết bè bạn, hoạn nạn gặp tri âm

Hãy đọc chuyện sâu sắc cái giếng cũ, để chúng ta  suy ngẫm về bè bạntri âm .

Chuyện sâu sắc cái giếng cũ,

Có một cái giếng cũ, từng là một giếng nước đựng đầy những dòng nước ngọt ngào. Nhưng giờ đây nó đã cạn khô, khát đến không chịu đựng được nữa …

Giếng cũ cầu xin một con ngỗng đi ngang qua bên cạnh cứu giúp, “Xin cậu làm ơn hãy mang đến cho ít một ít nước, dẫu chỉ là một giọt thôi cũng được”.

Con ngỗng nghĩ đến bản thân mình đã từng ăn qua rau xanh được tưới nước của cái giếng nên cũng đã nhận lời.

Nhưng mà … Khi con ngỗng đến đầm nước liền nô đùa với chúng bè bạn, quên ngay những lời cầu xin của cái giếng.

Giếng cũ không thể đợi được nước con ngỗng mang về nữa, nên lại cầu xin một con ếch xanh cứu giúp, ếch xanh không cần nghĩ ngợi liền nhận lời rằng sẽ mang một ít nước đến cho giếng khô … Nhưng khi ếch xanh đến bên bờ sông, nó lại không muốn rời khỏi dòng nước sông mát lạnh kia, những lời cầu cứu của giếng cũ đã sớm không coi là gì nữa.

Giếng cũ không thể chờ được nước của ếch xanh, nó đã hoàn toàn tuyệt vọng …….

Lúc này, có một con chim bị thương đang nghỉ ngơi bên cạnh, chú chim nhỏ không nhẫn tâm nhìn thấy dáng vẻ đau khổ của giếng cũ, vậy nên nó đã bay đến bên bờ sông, lấy bộ lông nhúng vào nước, muốn đem những giọt nước cho cái giếng.

Con chim nhỏ không biết rằng mình đã bay bao lâu, cuối cùng đã trở về bên cạnh cái giếng, nhưng chú chim nhỏ vì bị thương quá nặng nên đã mãi mãi không thể bay lên được nữa. Ngay cái thời khắc chú chim nhỏ giọt nước xuống bên miệng giếng, cái giếng đã sống lại, những dòng nước giếng trong sạch ngọt ngào theo đó mà cũng không ngừng tuôn ra, rất nhanh đã chứa đầy cái giếng

Không lâu sau, con ngỗng, ếch xanh đã trở về bên cạnh cái giếng cũ, lại trách mắng chú chim nhỏ nằm bên cạnh:

“Cái đồ đáng ghét này, muốn chết cũng không biết chọn chỗ, không khí trong lành như vậy đều bị nó làm cho ô nhiễm cả!”

Cái giếng cũ thở một hơi dài thật sâu … cảm thấy bị thương cho cái chết của chú chim nhỏ, đồng thời cũng đã nhìn rõ, ai mới là bạn bè thật sự!

Những lúc bạn thành công, xung quanh bạn là vô số người xa lạ, nhưng khi bạn thất bại, bản thân mới có thể nhận rõ ra được ai mới là bạn thật sự.

Người mà bạn nên tin tưởng không phải là người đã cho bạn tiếng vỗ tay, mà là những người bạn thật sự trong lúc bạn trượt ngã đã nâng bạn dậy!

Hoạn nạn mới thấy chân tình …

Quả đúng là “Phú quý kết bạn bè, hoạn nạn gặp tri âm”.

Tiểu Thiện, dịch từ cmoney.tw
Nguồn: tinhhoa

Câu chuyện hay người giàu người nghèo,bài học cuộc sống đầy ý nghĩa

Câu chuyện hay người giàu người nghèo dưới đây sẽ cho chúng ta một bài học cuộc sống đầy ý nghĩa để học tập.

người giàu người nghèo
ảnh minh họa

Có một người nghèo luôn than trách về số phận hẩm hiu của mình. Anh ta thường xuyên thắc mắc vì sao mình vất vả lắm mới có manh áo để mặc, miếng cơm để ăn. Những lúc thiên thời không thuận lợi thì lại đói rách. Trong khi đó có những người vẫn ăn sung mặc sướng chả phải lo nghĩ gì. Người này đã thỉnh cầu Phật tới giúp để giải đáp nỗi oan khuất của mình.
Trước mặt Phật, người nghèo khóc lóc kể về những cơ cực hàng ngày, làm việc mệt tưởng chết nhưng vẫn chỉ đủ ăn từng bữa mà không có của để dành.
Sau một hồi kể lể, người nghèo mới bình luận: “Con thấy đời thật bất công, tại sao lại có những kẻ giàu sang ung dung hưởng thụ còn người nghèo như chúng con đây làm việc cật lực quanh năm suốt tháng vẫn không thể được như họ?”
Phật mỉm cười và hỏi: “Vậy theo con như thế nào mới là công bằng?”
Người nghèo nhanh chóng đáp: “Dạ, con muốn Ngài để người nghèo và người giàu cùng có xuất phát điểm như nhau để xem họ sống ra sao. Nếu sau một thời gian người giàu vẫn giàu thì con sẽ không còn gì để phàn nàn nữa ạ”.
Phật gật đầu rồi nói: “Được rồi!” và Phật biến thành một người cùng xuất phát điểm như người nghèo. Mỗi người tới một ngọn núi để tìm kế sinh nhai. Núi có mỏ than nên hàng ngày hai người đó có thể khai thác than đem ra chợ bán đổi lấy tiền. Sau một tháng sẽ xem kết quả ra sao.
Hai người cùng nhau đào than. Người nghèo rất chăm chỉ làm việc và chẳng mấy chốc đào được đầy một xe than, chở ra chợ bán lấy tiền. Anh lấy số tiền đó mua hết đồ ăn ngon mang về cho vợ và con cùng hưởng.
Người còn lại không làm tích cực được như vậy, đào một lát đã thấy mệt và toát hết mồ hôi. Đến chiều muộn mới đào xong được gần đầy xe than, cũng đem ra chợ bán lấy tiền. Tuy nhiên anh chỉ mua một ít bánh mỳ thô, số còn lại để dành.
Sang ngày hôm sau người nghèo lại cật lực đào xới than, còn người kia ra chợ. Một lát sau anh trở về với hai người đàn ông rất khỏe mạnh và không có việc gì làm để kiếm tiền. Hai người kia tới mỏ than, không ai bảo ai cật lực đào bới, người đàn ông chỉ đứng và chỉ đạo họ làm việc.
Chỉ trong buổi sáng, người đàn ông đã có hai xe than đầy. Anh lại mang ra chợ bán đổi lấy tiền và thuê thêm nhân công. Cứ thế số than anh khai thác ngày một nhiều, trừ đi tiền trả cho người làm thuê cũng còn kha khá.
Một tháng trôi đi nhanh chóng và người nghèo vẫn vậy, hàng ngày mua được đồ ăn ngon, rượu ngọt nhưng không dành dụm được gì. Ngược lại người kia đã trở nên giàu có, sở hữu trong tay một đội quân khỏe mạnh để hàng ngày khai thác rất nhiều than chở ra chợ bán, thu về rất nhiều tiền.
Và có lẽ người nghèo không còn phàn nàn gì nữa.
Câu chuyện trên cho chúng ta hiểu rõ yếu tố cốt lõi mang đến thành công hay trở nên “giàu có”. Sự thành đạt không nằm ở việc chúng ta dốc hết sức lực vào công việc nào đó, mà chính là cách thức triển khai để tối ưu hóa nhân lực và tài lực của mình. Nếu biết sử dụng tốt nguồn tiền ban đầu cho dù là ít ỏi, chẳng mấy chốc chúng ta sẽ thành công.

Căn bênh lạ nguy hiểm hơn cả HIV

Các bác sĩ cảnh báo HPV có thể gây nguy hiểm chết người hơn cả virus căn bệnh thế kỷ AIDS.

Căn bênh lạ nguy hiểm hơn cả HIV

HIV có thể là căn bệnh đang sợ nhất lây truyền qua đường tình dục, nhưng căn bệnh này vẫn có thể miễn lây nhiễm nếu dùng bao cao su. Một căn bệnh khác đáng sợ hơn HIV, đó là bênh HPV hoặc còn có tên gọi là u nhú,  một trong những kẻ giết người hàng đầu của phụ nữ trên toàn thế giới khi quan hệ. Bao cao su chỉ có thể ngăn chặn được 60% nếu một người phụ nữ có quan hệ mới một người mắc căn bệnh chết người này.
HPV là căn bệnh mới nhất lây qua đường tình dục và có rất nhiều người sẽ chết vì căn bệnh này. Bao cao su cũng không thể giúp con người chống lại căn bênh này. HPV thường ủ bệnh trong cơ thể con người một thời gian khá dài, lúc mới đầu các dấu hiệu của bệnh rất khó nhận biết.
Các nhà khoa học đã chứng minh rằng sự phát triển của loại khuẩn này nghiêm trọng hơn với HIV-AIDS. “Các khuẩn của bệnh HPV phát triển rất mạnh, trong thời gian ngắn và phát tác nghiêm trọng đối với con người.”  Bác sĩ Alan Christiansen chia sẻ
Tỷ lệ của nữ giới lây sang cho nam giới chỉ chiếm 5% so với tỷ lệ của nam lây sang cho nữ giới. Có hơn 100 loại HPV và 13 loại trong số này gây ra ung thư, và 16, 17 loại HPV khác chiếm khoảng 70% số bệnh gây ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới.
Đáng buồn thay, y học vẫn khó có thể xác định được loại vi rút này ngay cả khi người bệnh đã mang chủng HPV, trừ khi ở giai đoạn cuối, những nốt mụn đã bắt đầu mọc lan ra khắp cơ thể.
Nhưng bạn sẽ không bị mắc bệnh này nếu không quan hệ tình dục với người mắc căn bênh này và không có sự tiếp xúc quan hệ bằng miệng.
Trên thế giới đã có 5.126 ca tử vong kể từ khi được phát hiện vào năm 2013.

Truyện Ngắn : Nhân nào quả nấy

Một hôm một người đàn ông trông thấy một bà lão với chiếc xe bị ‘pan’ đậu bên đường. Tuy trời đã sẩm tối anh vẫn có thể thấy bà đang cần giúp đỡ. Vì thế anh lái xe tấp vào lề đậu phía trước chiếc xe Mercedes của bà rồi bước xuống xe.

Nhân nào quả nấy
ảnh minh họa

Chiếc xe Pontiac cũ kĩ của anh vẫn nổ máy khi anh tiến đến trước mặt bà. Dù anh tươi cười nhưng bà lão vẫn tỏ vẻ lo ngại. Trước đó khoảng một tiếng đồng hồ không một ai dừng xe lại để giúp bà. Người đàn ông này liệu có thể hãm hại bà không? Trông ông không an toàn cho bà vì ông nhìn có vẻ nghèo và đói.

Người đàn ông đã có thể nhận ra nỗi sợ hãi của bà cụ đang đứng bên ngoài chiếc xe giữa trời lạnh. Anh biết cảm giác lo sợ của bà như thế nào rồi. Cái run đó, nỗi lo sợ trong lòng đó mới là lý do tự nó thành hình trong ta.

Anh nói: “Tôi đến đây là để giúp bà thôi. Bà nên vào trong xe ngồi chờ cho ấm áp? Luôn tiện, tôi tự giới thiệu tôi tên là Bryan Anderson.”

Thật ra thì xe của bà chỉ có mỗi vấn đề là một bánh bị xẹp thôi nhưng đối với một bà già thì nó cũng đủ gây phiền não rồi. Bryan bò xuống phía dưới gầm xe tìm một chỗ để con đội vào và lại bị trầy da chỗ khớp xương bàn tay một hai lần gì đó.

Chẳng bao lâu anh đã thay được bánh xe. Nhưng anh bị dơ bẩn và hai bàn tay bị đau rát.

Trong khi anh đang siết chặt ốc bánh xe, bà cụ xuống cửa kiếng và bắt đầu nói chuyện với anh. Bà cho anh biết bà từ St. Louis đến và chỉ mới đi được một đoạn đường. Bà không thể cám ơn đầy đủ về việc anh đến giúp đỡ cho bà. Bryan chỉ mỉm cười trong lúc anh đóng nắp thùng xe của bà lại. Bà cụ hỏi bà phải trả cho anh bao nhiêu tiền. Bryan chưa hề nghĩ đến là sẽ được trả tiền, đây không phải là nghề của anh. Anh chỉ là giúp người đang cần được giúp đỡ và Chúa, Phật biết đã có rất nhiều người trong quá khứ ra tay giúp anh. Anh đã sống cả đời mình như thế đó, và chưa bao giờ anh nghĩ sẽ làm chuyện ngược lại.

Anh nói với bà cụ nếu bà thật sự muốn trả ơn cho anh thì lần khác khi bà biết ai cần được giúp đỡ thì bà có thể cho người ấy sự giúp đỡ của bà, và Bryan nói thêm: “Và hãy nghĩ đến tôi…”

Anh chờ cho bà cụ nổ máy và lái xe đi thì anh mới bắt đầu đi về. Hôm ấy là một ngày ảm đạm và lạnh lẽo nhưng anh lại cảm thấy thoải mái khi lái xe về nhà và biến mất trong hoàng hôn.

Chạy được vài dặm trên con lộ bà cụ trông thấy một tiệm ăn nhỏ. Bà ghé lại để tìm cái gì để ăn và để đỡ lạnh phần nào trước khi bà đi đoạn đường chót để về nhà. Đó là một nhà hàng ăn trông có vẻ không được thanh lịch. Bên ngoài là hai bơm xăng cũ kỹ. Cảnh vật rất xa lạ với bà. Chị hầu bàn bước qua chỗ bà ngồi mang theo một khăn sạch để bà lau tóc ướt. Chị mỉm cười vui vẻ với bà dù phải đứng suốt ngày để tiếp khách. Bà cụ để ý thấy chị hầu bàn này đang mang thai khoảng tám tháng gì đó nhưng dưới cái nhìn của bà, bà thấy chị không bao giờ lộ sự căng thẳng hay đau nhức mà làm chị thay đổi thái độ.

Bà cụ thắc mắc không hiểu tại sao khi một người dù có ít lại cho một người lạ mặt rất nhiều. Rồi bà lại chợt nhớ đến anh chàng tên Bryan hồi nãy.

Sau khi bà ăn xong, bà trả bằng tờ giấy bạc một trăm đô-la. Chị hầu bàn mau mắn đi lấy tiền để thối lại tờ bạc một trăm của bà cụ nhưng bà cụ đã cố ý nhanh chân bước ra khỏi cửa rồi. Lúc chị hầu bàn quay trở lại thì bà cụ đã đi mất . Chị hầu bàn thắc mắc không biết bà cụ kia có thể đi đâu. Khi để ý trên bàn chị thấy có dòng chữ viết lên chiếc khăn giấy lau miệng.

Nước mắt vòng quanh khi chị đọc dòng chữ mà bà cụ viết: “Cô sẽ không nợ tôi gì cả. Tôi cũng đã ở vào tình cảnh thiếu thốn giống như cô. Có ai đó đã một lần giúp tôi giống như bây giờ tôi đang giúp cô. Nếu cô thực sự nghĩ rằng muốn trả ơn lại cho tôi thì đây là điều cô nên làm: Đừng để cho chuỗi tình thương này kết thúc ở nơi cô.”

Bên dưới tấm khăn giấy lau miệng bà cụ còn lót tặng thêm bốn tờ giấy bạc 100 đô-la.

Thật ra, có những bàn ăn cần lau dọn, những hũ đường cần đổ đầy, và những khách hàng để phục vụ nhưng chị hầu bàn đã hoàn tất việc ấy để sửa soạn cho qua ngày mai. Tối hôm đó khi chị đi làm về và leo lên giường nằm thì chị vẫn còn nghĩ về số tiền và những gì bà cụ đã viết cho. Làm thế nào bà cụ đã biết chị và chồng của chị cần số tiền ấy? Với sự sanh nở đứa bé vào tháng tới, điều ấy sẽ là khó khăn….

Chị biết chồng chị lo lắng đến mức nào, và trong lúc anh ta nằm ngủ cạnh chị, chị cho anh một cái hôn nhẹ và thì thào bên tai anh, “Mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả. Em thương anh, Bryan Anderson, ạ.”

Bông Hồng Cài Áo – Thiền sư : Nhất Hạnh

Để dâng mẹ và để làm quà Vu Lan cho những người nào có diễm phúc còn mẹ.
Medford, Hoa Kỳ, tháng tám, 1962,
Nhất Hạnh

bí quyết trồng sen khủng tại nhà

Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không “lớn” lên được. Cằn cỗi , héo mòn. Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: Tai nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, bài thơ ca tụng tình mẹ bài nào cũng dễ, cũng hay. Người viết dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ. Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, lo âu…. sợ sệt lo âu một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chưa chắc chắn phải đến :

Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời !
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi.

Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Ðể dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi…

Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời.

Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt nam không ưa cách nói cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức :

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.

Ngon biết bao ! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lên ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay ? hay là tơ trời đâu la miên ?) trên trán nóng ta và than thở “khổ chưa, con tôi “, ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một, và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau. Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận.

Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chẩy ra . Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi được biết tình nhân loại, tình chúng sinh ; nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh ; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý thương yêu của tôn giáo vốn dạy về tình thương.

Ðạo Phật có đức Quan Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu. Ðạo Chúa có đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ Mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương tín ngưỡng và hành động thì không xa chi mấy bước.

Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother’s Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Ðông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng.

Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào; chúng tôi không có được cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan.

Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Ðừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: “trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!”. Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Ðòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Ðể mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Ðể khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: “Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!”

Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: ” Mẹ ơi, mẹ có biết không ?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười “Biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: “Mẹ có biết là con thương mẹ không ?” Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi ngừơi cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.

Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Kiền Liên và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương Tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận.

Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là con. Ðó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa thầy giáo hỏi rằng: “Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?” Tôi trả lời: “Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi”. Bây giờ thì tôi biết rằng: Con thương mẹ thì không phải “làm thế nào” gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi ” làm thế nào ” nữa!

Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt hại cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết mà thôi. Ðể mai này anh chị đừng có than thở rằng: Ðời ta không còn gì cả. Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.

Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Ðáng nhẽ chị tôi không đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu, người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi.

Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói: “Mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác”. Chị tôi gục đầu xuống mâm khóc. Chị nói: “Thôi con không lấy chồng nữa”. Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. “Cắt ái từ sở thân” là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự chọn lựa nào mà không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng qúi báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau.

Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: “Không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ!”. Tôi đã nói là tôi không khuyên răn gì hết — tôi không giảng luân lý đạo đức — rồi mà! Tôi chỉ nhắc anh: “Mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương“. Ðể chị đừng quên, để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn : Cũng không phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo anh một bông hoa hồng: để anh sung sướng, thế thôi.

Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh, như thế này. Chiều nay, khi đi học hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi: “Mẹ ơi, mẹ có biết không?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: “Biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: “Mẹ có biết là con thương mẹ không?” Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi, thì anh cũng hỏi một câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Và ngày mai mất mẹ, Anh sẽ không hối hận, đau lòng , tiếc rằng anh không có mẹ.

Ðó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Ðóa hoa mầu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi./-

Nhất Hạnh (1962)

A Rose for Your Pocket

Thich Nhat Hanh

 

The thought “mother” cannot be separated from that of “love”. Love is sweet, tender, and delicious. Without love, a child cannot flower, an adult cannot mature. Without love, we weaken, wither.

The day my mother died, I made this entry in my journal: “the greatest misfortune of my life has come !”. Even an old person, when he loses his mother, doesn’t feel ready. He too has the impression that he is not yet ripe, that he is suddenly alone. He feels as abandoned and unhappy as a young orphan.

All songs and poems praising motherhood are beautiful, effortlessly beautiful. Even songwriters and poets without much talent seem to pour their hearts into these works, and when they are recited or sung, the performers also seem deeply moved, unless they have lost their mothers too early even to know what love for mother is. Writings extolling the virtues of motherhood have existed since the beginning of time throughout the world.

When I was a child I heard a simple poem about losing your mother, and it is still very important for me. If your mother is still alive, you may feel tenderness for her each time you read this, fearing this distant yet inevitable event.

That year, although I was still very young
my mother left me,
and I realised that I was an orphan,

everyone around me was crying,
I suffered in silence…
Allowing the tears to flows,
I felt my pain soften.

Evening enveloped
Mother’s tomb,
the pagoda bell rang sweetly.
I realised that to lose your mother
is to lose the whole universe.

We swim in a world of tender love for many years, and, without even knowing it, we are quite happy there. Only after it is too late do we become aware of it.

People in the countryside do not understand the complicated language of city people. When people from the city say that mother is “a treasure of love”, that is already too complex for them. Country people in Vietnam compare their mothers to the finest varieties of bananas or to honey, sweet rice, or sugar cane. They express their love in these simple and direct ways. For me, a mother is like a “ba hu+o+ng” banana of the highest quality, like the best “ne^’p mo^.t” sweet rice, the most delicious “mi’a lau” sugar cane!

There are moments after a fever when you have a bitter, flat taste in your mouth, and nothing tastes good. Only when your mother comes and tucks you in, gently pulls the covers over your chin, puts her hand on your burning forehead (Is it really a hand, or is it the silk of heaven?), and gently whispers, “My poor darling!” do you feel restored, surrounded with the sweetness of maternal love. Her love is so fragrant, like a banana, like sweet rice, like sugar cane.

Father’s work is enormous, as huge as a mountain. Mother’s devotion is overflowing, like water from a mountain spring . Maternal love is our first taste of love, the origin of all feelings of love. Our mother is the teacher who first teaches us love, the most important subject in life. Without my mother I could never have known how to love. Thanks to her I can love my neighbours. Thanks to her I can love all living beings. Through her I acquired my first notions of understanding and compassion.

Mother is the foundation of all love, and many religious traditions recognise this and pay deep honour to a maternal figure, the Virgin Mary, the goddess Kwan Yin. Hardly an infant has opened her mouth to cry without her mother already running to the cradle. Mother is a gentle and sweet spirit who makes unhappiness and worries disappear. When the word “mother” is uttered, already we feel our hearts overflowing with love. From love, the distance to belief and action is very short.

In the West, we celebrate Mother’s Day in May. I am from the countryside of Vietnam, and I had never heard of this tradition. One day, I was visiting the Ginza district of Tokyo with the monk Thien An, and we were met outside a bookstore by several Japanese students who were friends of his. One discretely asked him a question, and then took a white carnation from her bag and pinned it on my robe. I was surprised and a little embarrassed. I had no idea what this gesture meant, and I didn’t dare ask. I tried to act natural, thinking this must be some local custom.

When they were finished talking (I don’t speak Japanese), Thien An and I went into the bookstore, and he told me that today was what is called Mother’s Day. In Japan, if your mother is still alive, you wear a red flower on your pocket or your lapel, proud that you still have your mother. If she is no longer alive, you wear a white flower. I looked at the white flower on my robe and suddenly I felt so unhappy.

I was as much an orphan as any other unhappy orphan; we could no longer proudly wear red flowers in our buttonholes. Those who wear white flowers suffer, and their thoughts cannot avoid returning to their mothers. They cannot forget that she is no longer there. Those who wear red flowers are so happy, knowing their mothers are still alive. They can try to please her before she is gone and it is too late. I find this a beautiful custom. I propose that we do the same thing in Vietnam, and in the West as well.

Mother is a boundless source of love, an inexhaustible treasure. But unfortunately, we sometimes forget. A mother is the most beautiful gift life offers us. Those of you who still have your mother near, please don’t wait for her death to say, “My God, I have lived beside my mother all these years without ever looking closely at her.”

Just brief glances, a few words exchanged-asking for a little pocket money or one thing or another. You cuddle up to her to get warm, you sulk, you get angry with her. You only complicate her life, causing her to worry, undermining her health, making her go to sleep late and get up early. Many mothers die young because of their children. Throughout her life we expect her to cook, wash, and clean up after us, while we think only about our grades and our careers. Our mothers no longer have time to look deeply at us, and we are too busy to look closely at her. Only when she is no longer there do we realise that we have never been conscious of having a mother.

This evening, when you return from school or work or, if you live far away, the next time you visit your mother, you may wish to go into her room and, with a calm and silent smile, sit down beside her. Without saying anything, make her stop working. Then, look at her for a long time, look at her deeply. Do this in order to see her, to realise that she is there, she is alive, beside you. Take her hand and ask her one short question to capture her attention, “Mother, do you know something?” She will be a little surprised and will probably smile when she asks you, “What, dear?” Keep looking into her eyes, smiling serenely, and say, “Do you know that I love you?” Ask this question without waiting for an answer. Even if you are thirty or forty years old, or older, ask her as the child of your mother. Your mother and you will be happy, conscious of living in eternal love. Then tomorrow, when she leaves you, you will have no regrets.

In Vietnam, on the holiday of Ullambana, we listen to stories and legends about the bodhisattva Maudgalyayana, and about filial love, the work of the father, the devotion of the mother, and the duty of the child. Everyone prays for the longevity of his or her parents, or if they are dead, for their rebirth in the heavenly Pure Land. We believe that a child without filial devotion is just artificial. But filial devotion also arises from love itself. Without love, filial devotion is just artificial. When love is present, that is enough, and there is no need to talk of obligation. To love your mother is enough. It is not a duty, it is completely natural, like drinking when you are thirsty. Every child must have a mother and it is totally natural to love her. The mother loves her child, and the child loves his mother. The child needs his mother, and the mother needs her child. If the mother doesn’t need her child, nor the child his mother, then this is not a mother, and this is not a child. It is a misuse of the words “mother” and “child”.

When I was young, one of my teachers asked me, “What do you have to do when you love your mother?” I told him, “I must obey her, help her, take care of her when she is old, and pray for her, keeping the ancestral altar when she has disappeared forever behind the mountain.” Now I know that the word “What” in his question was superfluous. If you love your mother, you don’t have to do anything. You love her; that is enough. To love your mother is not a question of morality or virtue.

Please do not think I have written this to give a lesson in morality. Loving your mother is a question of profit. A mother is like a spring of pure water, like the very finest sugar cane or honey, the best quality sweet rice. If you do not know how to profit from this, it is unfortunate for you. I simply want to bring this to your attention, to help you avoid one day complaining that there is nothing left in life for you. If a gift such as the presence of your own mother doesn’t satisfy you, even if you are president of a large corporation or king of the universe, you probably will not be satisfied. I know that the Creator is not happy, for the Creator arises spontaneously and does not have the good fortune to have a mother.

I would like to tell a story. Please don’t think that I am thoughtless. It could have been that my sister didn’t marry, and I didn’t become a monk. In any case, we both left our mother — one to lead a new life beside the man she loved, and the other to follow an ideal of life that he adored. The night my sister married, my mother worried about a thousand and one things, and didn’t even seem sad. But when we sat down at the table for some light refreshments, while waiting for our in-laws to come for my sister, I saw that my mother hadn’t eaten a bite. She said, “For eighteen years she has eaten with us and today is her last meal here before going to another family’s home to take her meals.” My sister cried, her head bowing barely above her plate, and she said, “Mama, I won’t get married.” But she married nonetheless. As for me, I left my mother to become a monk. To congratulate those who are firmly resolved to leave their families to become monks, one says that they are following the way of understanding, but I am not proud of it. I love my mother, but I also have an ideal, and to serve it I had to leave her — so much the worse for me.

In life, it is often necessary to make difficult choices. We cannot catch two fish at the same time: one in each hand. It is difficult, because if we accept growing up, we must accept suffering. I don’t regret leaving my mother to become a monk, but I am sorry I had to make such a choice. I didn’t have the chance to profit fully from this precious treasure. Each night I pray for my mother, but it is no longer possible for me to savour the excellent “ba hu+o+ng” banana, the best quality “ne^’p mo^.t” sweet rice, and the delicious “mi’a lau” sugar cane. Please don’t think that I am suggesting that you not follow your career and remain home at your mother’s side. I have already said I do not want to give advice or lessons in continuing to look into her eyes with a serene smile, tell her, “Do you know that I love you?” Ask her this question without waiting for an answer. Even if you are thirty, forty years old, or older, ask her simply, because you are the child of your mother. Your mother and you will both be happy, conscious of living in eternal love. And tomorrow when she leaves you, you will not have any regrets.

This is the refrain I give you to sing today. Brothers and sisters, please chant it, please sing it, so that you won’t live in indifference or forgetfulness. This red rose, I have already placed it on your lapel. Please be happy.

Thich Nhat Hanh (1962)