Bài Này Rất Hay: Vỗ vào lõm khuỷu tay có thể cứu mạng nạn nhân lên cơn đau tim

Tại một lễ cưới vào năm 2011, một ông già đang ngồi thì bỗng nhiên ông ta bị khó thở và ngất lịm đi. Giống như thể ông ấy lên cơn đau tim vậy. Một người nào đó đã gọi xe cứu thương
Vỗ vào lõm khuỷu tay có thể cứu mạng nạn nhân lên cơn đau tim

 

Tại một lễ cưới vào năm 2011, một ông già đang ngồi  thì bỗng nhiên ông ta bị khó thở và ngất lịm đi. Giống như thể ông ấy lên cơn đau tim vậy. Một người nào đó đã gọi xe cứu thương. Một người khác đã xắn tay áo của ông lên và vỗ  mạnh vào lõm trên khuỷu tay của ông ấy (còn gọi là hố trụ). Người đó đã yêu cầu người nhà của ông cũng vỗ mạnh vào lõm của khuỷu tay bên kia . Sau một lúc liên tục làm như vậy hàng chục lần, ông già bắt đầu phản ứng. Ông ấy đã thoát khỏi cơn nguy kịch.

Y học cổ truyền Trung Quốc tin rằng “lạnh khiến cho máu huyết ứ đọng và khó lưu thông.” Sự hình thành và loại bỏ các cục máu đông có cơ chế tương tự như dầu đậu phộng : nó có dạng kết tủa khi nhiệt độ xuống thấp và tan trở lại khi nhiệt độ tăng lên. Màng ngoài tim và các dòng năng lượng của tim tại khuỷu tay liên kết trực tiếp với tim. khi bạn vỗ mạnh vào 2 mạch năng lượng này, bạn thúc đẩy “sự tuần hoàn năng lượng, và sau đó là sự lưu thông máu.” Điều này sẽ khiến người đó cảm thấy ấm lên và đổ mồ hôi. “Tính dương tăng” và loại bỏ sự cản trở lưu thông máu, và làm thông thoáng các mạch máu.

Bất kì ai cũng có thể thực hiện các kĩ thuật đơn giản này và không cần thông qua các khóa đào tạo. Vỗ vào lõm của khuỷu tay hằng ngày giúp ngăn ngừa các vấn đề về tim mạch và làm giảm huyết áp. Điều đó giúp giảm sự xuất hiện của các cơn đau tim.

Vỗ vào lõm khuỷu tay hằng ngày giúp ngăn ngừa các bệnh về tim mạch và giảm huyết áp.

Quan sát xem bạn có bị bầm tím nơi khuỷu tay sau khi vỗ mạnh vào nó hay không, điều đó cũng có thể được sử dụng để chẩn đoán liệu bạn có mắc các bệnh về tim hay không. Độ chính xác của phương pháp chẩn đoán này cao hơn so với việc sử dụng các phương tiện y học hiện đại. Nếu có một vết bầm tím ở khuỷu tay sau khi vỗ , bạn nên tiếp tục vỗ cho đến khi nó chuyển sang màu đỏ. Bất kì bệnh về tim nào cũng sẽ được giảm bớt thậm chí là bị loại bỏ. Phương pháp điều trị này được gọi là “làm tan ứ huyết.” Tiếp tục vỗ vào những mạch năng lượng khác trên cơ thể bạn, hoặc những nơi bị đau khi bạn chạm vào, điều đó có lẽ giúp điều trị một số căn bệnh mà không thể chữa trị được.

Căn bênh lạ nguy hiểm hơn cả HIV

Các bác sĩ cảnh báo HPV có thể gây nguy hiểm chết người hơn cả virus căn bệnh thế kỷ AIDS.

Căn bênh lạ nguy hiểm hơn cả HIV

HIV có thể là căn bệnh đang sợ nhất lây truyền qua đường tình dục, nhưng căn bệnh này vẫn có thể miễn lây nhiễm nếu dùng bao cao su. Một căn bệnh khác đáng sợ hơn HIV, đó là bênh HPV hoặc còn có tên gọi là u nhú,  một trong những kẻ giết người hàng đầu của phụ nữ trên toàn thế giới khi quan hệ. Bao cao su chỉ có thể ngăn chặn được 60% nếu một người phụ nữ có quan hệ mới một người mắc căn bệnh chết người này.
HPV là căn bệnh mới nhất lây qua đường tình dục và có rất nhiều người sẽ chết vì căn bệnh này. Bao cao su cũng không thể giúp con người chống lại căn bênh này. HPV thường ủ bệnh trong cơ thể con người một thời gian khá dài, lúc mới đầu các dấu hiệu của bệnh rất khó nhận biết.
Các nhà khoa học đã chứng minh rằng sự phát triển của loại khuẩn này nghiêm trọng hơn với HIV-AIDS. “Các khuẩn của bệnh HPV phát triển rất mạnh, trong thời gian ngắn và phát tác nghiêm trọng đối với con người.”  Bác sĩ Alan Christiansen chia sẻ
Tỷ lệ của nữ giới lây sang cho nam giới chỉ chiếm 5% so với tỷ lệ của nam lây sang cho nữ giới. Có hơn 100 loại HPV và 13 loại trong số này gây ra ung thư, và 16, 17 loại HPV khác chiếm khoảng 70% số bệnh gây ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới.
Đáng buồn thay, y học vẫn khó có thể xác định được loại vi rút này ngay cả khi người bệnh đã mang chủng HPV, trừ khi ở giai đoạn cuối, những nốt mụn đã bắt đầu mọc lan ra khắp cơ thể.
Nhưng bạn sẽ không bị mắc bệnh này nếu không quan hệ tình dục với người mắc căn bênh này và không có sự tiếp xúc quan hệ bằng miệng.
Trên thế giới đã có 5.126 ca tử vong kể từ khi được phát hiện vào năm 2013.

Bài tập ngắn 1 phút giúp bạn sống thêm 20 năm nữa

Bạn có thể thử tập các bài tập sau theo Y học cổ truyền chỉ mất 1 phút này. Những bài tập ngắn này được cho là giúp bạn thoải mái cả ngày và sống thọ được thêm 20 năm.
1. Xoa tay
Chà 2 lòng bàn tay của bạn với nhau thật nhanh khoảng 300 lần để kích thích tất cả 6 kinh mạch trong lòng bàn tay, từ đó giúp tăng cường chức năng của các cơ quan nội tạng và cân bằng hệ âm dương. Bài tập này sẽ giúp bạn giảm cơn đau vai và đỡ mỏi mắt.
Bài tập ngắn 1 phút giúp bạn sống thêm 20 năm nữa
2. Mát xa da đầu bằng các ngón tay
Bằng cách dùng các ngón tay để xoa bóp da đầu của bạn từ trán xuống phía sau đầu, với tốc độ 2-4 lần/ giây, sẽ giúp tăng cường tuần hoàn máu não và đưa chất dinh dưỡng đến chân tóc của bạn. Vì thế tóc của bạn sẽ trông bồng bềnh và bóng mượt hơn.
Bài tập ngắn 1 phút giúp bạn sống thêm 20 năm nữa
3. Mát xa tai theo hình xoắn ốc
Sử dụng tay của bạn nhẹ nhàng mát xa cho đôi tai theo hình xoắn ốc cho đến khi chúng dần ấm lên và bạn cảm thấy dễ chịu. Bài tập này sẽ giúp khai mở các kinh mạch và lưu thông năng lượng, duy trì thính giác của bạn và đặc biệt tốt để chống bệnh ù tai, chóng mặt và lãng trí.
4. Đảo mắt
Đảo đôi mắt của bạn theo chiều kim đồng hồ và ngược chiều kim đồng hồ 30 lần sẽ giúp tăng cường cơ mắt và cũng là biện pháp hữa hiệu để phòng ngừa các bệnh về mắt như viêm giác mạc mãn tính và bệnh cận thị.
Bài tập ngắn 1 phút giúp bạn sống thêm 20 năm nữa
5.  Xoa bóp mũi
Xoa bóp mũi bằng ngón tay cái có thể giúp tăng cường lưu thông máu, dưỡng ẩm cho phổi và giúp bạn phòng tránh bệnh cảm lạnh.
 Bài tập ngắn 1 phút giúp bạn sống thêm 20 năm nữa
Phương pháp cụ thể là: Chà hai bên mặt của ngón tay cái với nhau cho đến khi chúng ấm và sau đó chà lên chóp mũi 24 lần, sử dụng các ngón tay của bạn để chà hai bên cánh mũi 12 lần và cào nhẹ lên xuống sóng mũi 10 lần.
6. Hít thở và chạm răng
Sau khi thức dậy vào buổi sáng, bạn hãy đi ra ngoài và hít thở bầu không khí trong lành. Mở rộng miệng, thở ra, và khép miệng lại, gõ nhẹ hai hàm răng lại với nhau. Hành động này có thể thúc đẩy hoạt động não bộ thông qua sự phản ứng của các dây thần kinh mặt, và cũng có thể ngăn ngừa teo cở ở tuổi già.
7.  Mát xa rốn nhẹ nhàng
Dùng hai lòng bàn tay mát xa nhẹ nhàng rốn của bạn theo chiều kim đồng hồ. Bài tập này có thể tăng cường sự tiêu hóa và bài tiết.
 Bài tập ngắn 1 phút giúp bạn sống thêm 20 năm nữa
8. Cơ bụng và cơ vòng
Hít thở sâu, thu nhỏ và thư giãn cơ vòng và cơ bụng trong 1 phút. Điều này có thể ngăn ngừa bệnh trĩ và gia tăng tuần hoàn máu.
9. Duỗi thẳng tay chân
Nằm ngửa, uốn cong và giang rộng chân tay của bạn. Động tác này sẽ cải thiện quá trình cung cấp oxy cho tim và não của bạn.
10.  Mát xa lòng bàn chân
Sử dụng gót chân bên này để xoa bóp lòng bàn chân bên kia khi bạn nằm ngửa mình ra. Động tác này rất có lợi cho gan, mắt, suy nhược thần kinh, bệnh mất ngủ và ù tai.
 Bài tập ngắn 1 phút giúp bạn sống thêm 20 năm nữa

Nguồn:  http://www.suckhoegiadinh.com.vn

Truyện Ngắn : Nhân nào quả nấy

Một hôm một người đàn ông trông thấy một bà lão với chiếc xe bị ‘pan’ đậu bên đường. Tuy trời đã sẩm tối anh vẫn có thể thấy bà đang cần giúp đỡ. Vì thế anh lái xe tấp vào lề đậu phía trước chiếc xe Mercedes của bà rồi bước xuống xe.

Nhân nào quả nấy
ảnh minh họa

Chiếc xe Pontiac cũ kĩ của anh vẫn nổ máy khi anh tiến đến trước mặt bà. Dù anh tươi cười nhưng bà lão vẫn tỏ vẻ lo ngại. Trước đó khoảng một tiếng đồng hồ không một ai dừng xe lại để giúp bà. Người đàn ông này liệu có thể hãm hại bà không? Trông ông không an toàn cho bà vì ông nhìn có vẻ nghèo và đói.

Người đàn ông đã có thể nhận ra nỗi sợ hãi của bà cụ đang đứng bên ngoài chiếc xe giữa trời lạnh. Anh biết cảm giác lo sợ của bà như thế nào rồi. Cái run đó, nỗi lo sợ trong lòng đó mới là lý do tự nó thành hình trong ta.

Anh nói: “Tôi đến đây là để giúp bà thôi. Bà nên vào trong xe ngồi chờ cho ấm áp? Luôn tiện, tôi tự giới thiệu tôi tên là Bryan Anderson.”

Thật ra thì xe của bà chỉ có mỗi vấn đề là một bánh bị xẹp thôi nhưng đối với một bà già thì nó cũng đủ gây phiền não rồi. Bryan bò xuống phía dưới gầm xe tìm một chỗ để con đội vào và lại bị trầy da chỗ khớp xương bàn tay một hai lần gì đó.

Chẳng bao lâu anh đã thay được bánh xe. Nhưng anh bị dơ bẩn và hai bàn tay bị đau rát.

Trong khi anh đang siết chặt ốc bánh xe, bà cụ xuống cửa kiếng và bắt đầu nói chuyện với anh. Bà cho anh biết bà từ St. Louis đến và chỉ mới đi được một đoạn đường. Bà không thể cám ơn đầy đủ về việc anh đến giúp đỡ cho bà. Bryan chỉ mỉm cười trong lúc anh đóng nắp thùng xe của bà lại. Bà cụ hỏi bà phải trả cho anh bao nhiêu tiền. Bryan chưa hề nghĩ đến là sẽ được trả tiền, đây không phải là nghề của anh. Anh chỉ là giúp người đang cần được giúp đỡ và Chúa, Phật biết đã có rất nhiều người trong quá khứ ra tay giúp anh. Anh đã sống cả đời mình như thế đó, và chưa bao giờ anh nghĩ sẽ làm chuyện ngược lại.

Anh nói với bà cụ nếu bà thật sự muốn trả ơn cho anh thì lần khác khi bà biết ai cần được giúp đỡ thì bà có thể cho người ấy sự giúp đỡ của bà, và Bryan nói thêm: “Và hãy nghĩ đến tôi…”

Anh chờ cho bà cụ nổ máy và lái xe đi thì anh mới bắt đầu đi về. Hôm ấy là một ngày ảm đạm và lạnh lẽo nhưng anh lại cảm thấy thoải mái khi lái xe về nhà và biến mất trong hoàng hôn.

Chạy được vài dặm trên con lộ bà cụ trông thấy một tiệm ăn nhỏ. Bà ghé lại để tìm cái gì để ăn và để đỡ lạnh phần nào trước khi bà đi đoạn đường chót để về nhà. Đó là một nhà hàng ăn trông có vẻ không được thanh lịch. Bên ngoài là hai bơm xăng cũ kỹ. Cảnh vật rất xa lạ với bà. Chị hầu bàn bước qua chỗ bà ngồi mang theo một khăn sạch để bà lau tóc ướt. Chị mỉm cười vui vẻ với bà dù phải đứng suốt ngày để tiếp khách. Bà cụ để ý thấy chị hầu bàn này đang mang thai khoảng tám tháng gì đó nhưng dưới cái nhìn của bà, bà thấy chị không bao giờ lộ sự căng thẳng hay đau nhức mà làm chị thay đổi thái độ.

Bà cụ thắc mắc không hiểu tại sao khi một người dù có ít lại cho một người lạ mặt rất nhiều. Rồi bà lại chợt nhớ đến anh chàng tên Bryan hồi nãy.

Sau khi bà ăn xong, bà trả bằng tờ giấy bạc một trăm đô-la. Chị hầu bàn mau mắn đi lấy tiền để thối lại tờ bạc một trăm của bà cụ nhưng bà cụ đã cố ý nhanh chân bước ra khỏi cửa rồi. Lúc chị hầu bàn quay trở lại thì bà cụ đã đi mất . Chị hầu bàn thắc mắc không biết bà cụ kia có thể đi đâu. Khi để ý trên bàn chị thấy có dòng chữ viết lên chiếc khăn giấy lau miệng.

Nước mắt vòng quanh khi chị đọc dòng chữ mà bà cụ viết: “Cô sẽ không nợ tôi gì cả. Tôi cũng đã ở vào tình cảnh thiếu thốn giống như cô. Có ai đó đã một lần giúp tôi giống như bây giờ tôi đang giúp cô. Nếu cô thực sự nghĩ rằng muốn trả ơn lại cho tôi thì đây là điều cô nên làm: Đừng để cho chuỗi tình thương này kết thúc ở nơi cô.”

Bên dưới tấm khăn giấy lau miệng bà cụ còn lót tặng thêm bốn tờ giấy bạc 100 đô-la.

Thật ra, có những bàn ăn cần lau dọn, những hũ đường cần đổ đầy, và những khách hàng để phục vụ nhưng chị hầu bàn đã hoàn tất việc ấy để sửa soạn cho qua ngày mai. Tối hôm đó khi chị đi làm về và leo lên giường nằm thì chị vẫn còn nghĩ về số tiền và những gì bà cụ đã viết cho. Làm thế nào bà cụ đã biết chị và chồng của chị cần số tiền ấy? Với sự sanh nở đứa bé vào tháng tới, điều ấy sẽ là khó khăn….

Chị biết chồng chị lo lắng đến mức nào, và trong lúc anh ta nằm ngủ cạnh chị, chị cho anh một cái hôn nhẹ và thì thào bên tai anh, “Mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả. Em thương anh, Bryan Anderson, ạ.”

Nguồn gốc và ý nghĩa của ngày Lễ Vu Lan

Trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam lễ Vu Lan (nhằm ngày 15/7 âm lịch) từ lâu đã thành một ngày trọng đại, không thể thiếu được trong hệ thống các hoạt động văn hoá tâm linh nói chung, văn hoá Phật giáo nói riêng. Chính vì vậy, trong bài viết này người viết xin được lần lượt đi vào giải quyết hai vấn đề đó là: Nguồn gốc và nghĩa giáo dục của lễ Vu Lan.
Nguồn gốc và ý nghĩa của ngày Lễ Vu Lan

1. Nguồn gốc của lễ Vu Lan.

Vu Lan hay Vu Lan bồn có nguồn gốc từ chữ phạn Ullambana, dịch sang tiếng Hán ngữ là Giải đảo huyền, tức là gỡ khỏi nạn treo ngược–theo nghĩa tiếng Việt. Mà hiểu rộng ra là nhờ vào sự thành tâm chú nguyện của Thập phương chư Tăng mà chúng ta có thể cứu được cha mẹ, tổ tiên thoát khỏi cảnh tội đồ, cầu nguyện cho chúng sinh được siêu thoát, khỏi vòng sinh tử luân hồi.

Nguồn gốc và ý nghĩa của ngày Lễ Vu Lan
Trên thế gian này, tất cả những sự sống đều do cha, mẹ sinh ra. Cha mẹ đã chịu mọi khó khổ để sinh con ra, và để nuôi con khôn lớn.

 

Theo Phật thoại: Tôn giả Mục Kiền Liên là một trong số ít đệ tử xuất chúng của Ðức Phật. Ngài có quyền pháp vô biên, nhưng không vì thế mà Ngài quên đi nghĩa vụ của một người con đối với cha mẹ. Một lần, dùng tuệ nhãn quan sát khắp “bốn phương tám hướng” Tôn giả Mục Kiền Liên thấy mẹ mình (là bà Thanh Ðề) đang chịu cảnh tội đồ trong ngục A tỳ, thân thể gầy héo, xanh xao, chỉ còn da bọc xương, khổ đau khôn xiết. Dù biết đó là do kết quả của thói tham lam, độc ác, sự dối trá từ thuở sinh thời mẹ đã gây nên, nhưng Ngài vẫn không khỏi thương xót. Dùng pháp thuật của mình, Tôn giả Mục Kiền Liên mang cơm dâng lên mẹ. Nhưng, do nghiệp quá lớn nên bát cơm bà Thanh Ðề cầm trên tay bỗng hoá thành than đỏ. Chứng kiến cảnh tượng ấy, Ngài rất đau lòng, về bạch lại với Phật, mong Ðức Phật cứu vớt để linh hồn mẹ mình được siêu thoát. Cảm động trước tấm lòng hiếu nghĩa của Tôn giả Mục Kiền Liên, Ðức Phật đã chỉ cách để Ngài có thể cứu vớt được mẹ ra khỏi cảnh đoạ đầy. Ðức Phật nói: “Ông tuy quyền phép vô biên, lại hiếu thảo hơn người, tấm lòng của ông làm cảm động cả trời đất nhưng tội ác của mẹ ông quá nặng, một mình ông không thể cứu được mẹ. Ðến ngày rằm tháng bẩy, Chư Phật hoan hỉ, Chư Tăng tự tứ, hãy sửa soạn lễ vật cúng Dàng, thành tâm thỉnh cầu Chư Tăng chú nguyện thì mẹ ông mới có thể siêu thoát được”.

Theo lời Phật dạy, nhằm ngày Rằm tháng Bảy, Tôn giả Mục Kiền Liên lập bồn Vu Lan (chậu đựng đồ lễ cúng dàng), thỉnh mời Chư Tăng đến chú nguyện. Nhờ đó bà Thanh Ðề mới được siêu thoát. Các vong linh khác cũng nhờ phúc lành của Chư Tăng mà được siêu thoát. Noi gương hiếu đễ của Tôn giả Mục Kiền Liên, hàng năm, cứ đến ngày Rằm tháng Bảy các tín đồ, Phật tử khắp nơi lại tưng bừng tổ chức ngày lễ Vu Lan với tín tâm cầu cha mẹ, ông bà, tổ tiên mình sẽ được thoát khỏi tội đồ.

2. Ý nghĩa giáo dục

Ngày lễ Vu Lan là dịp “nhắc nhở” các thế hệ con cháu chúng ta nhớ tới công ơn dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, ông bà, tổ tiên cũng như những đóng góp to lớn của các anh hùng dân tộc, những người có công với đất nước. Ðồng thời giúp chúng ta tiếp cận được những ý nghĩa giáo dục đầy nhân bản của văn hoá Phật giáo đó là “Từ, bi, hỷ, xả”, “vô ngã, vị tha”, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”…

Không riêng gì với mỗi Phật tử chúng ta, lễ Vu Lan mở ra cả một mùa báo ân, báo hiếu. Báo hiếu ở đây là báo hiếu đối với cha mẹ, không chỉ ở kiếp này mà còn ở nhiều kiếp khác, bởi Phật giáo luôn nhìn nhận con người trong mối tương quan nhân quả, trong vòng nghiệp háo luân hồi. Và cũng chính vì nhìn nhận dưới góc độ đó mà hết thảy mọi chúng sinh trong xã hội đều có mối quan hệ với nhau. Ðiều này dẫn đến việc chúng ta phải mở rộng phạm vi báo hiếu ra tất cả chúng sinh. “Phổ độ chúng sinh”, “cứu nhân, độ thế”, “xá tội vong nhân” nhờ vậy mà được hình thành. Mà như tác giả Vi Phương Anh đã nhận định thì: “… người Việt cử hành lễ Vu Lan nhằm giải tội cho người chết, cầu phúc cho người sống. Ðiều đặc biệt đáng chú ý là ngoài việc cầu siêu cho gia tiên, người Việt còn có lễ cầu siêu cho các cô hồn, u hồn của người khi tại thế đã thất cơ lỡ vận, phiêu bạt bơ vơ, không nơi nương tựa và chịu nhiều oan trái trong xã hội… bằng việc đọc bài văn tế cô hồn trong khi hành lễ. Vậy là tục cúng các cô hồn của người Việt đã giao hoà với tinh thần cứu khổ cứu nạn, cứu nhân, độ thế của nhà Phật làm cho lễ Vu Lan thêm phần phong phú và sống động”. Thật đúng là:

Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tịnh bình rưới hạt dương chi
Muốn nhờ Đức Phật từ bi
Giải oan cứu độ, hồn về Tây phương.

Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi
Ðàn chẩn tế đây lời Phật giáo
Của có chi bát cháo nén hương
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đàng thăng thiên.

Báo hiếu là sự biểu hiện phẩm hạnh dạo đức của mỗi con người chúng ta. Trong xã hội, luôn luôn tồn tại hai hoạt động mang ý nghĩa dường như trái ngược nhau song lại gắn bó chạt chẽ với nhau đó là làm ơn (ân) và trả (báo) ơn (ân). Người xưa đã đạy: “Có hai điều dứt khoát phải làm, một là phải quên đi khi mình giúp đỡ người khác, hai là phải ghi nhớ, phải trả ơn khi người khác giúp mình”. Hành động làm ơn và trả ơn là không thể thiếu được trong bất cứ xã hội nào bởi trong cuộc sống con người đâu có tồn tại một cách độc lập, mà họ luôn tồn tại trong mối tương quan, trong sự gắn kết giữa các cá nhân với các chủ thể khác. Mác từng nói: “Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”, do đó, con người nếu đã hiếu nghĩa với cha mẹ, họ hàng thì không thể không yêu quý quốc gia; thầy cô, bè bạn; và mở rộng ra là với toàn thể chúng sinh, đồng bào. Cùng với báo ân cha mẹ, ba điều này hợp thành khái niệm: “Tứ ân” trong Phật giáo. Ðó chính là:

–Ơn cha mẹ: là ơn sinh thành dưỡng dục.
–Ơn thầy cô: là ơn dạy dỗ những kiến thức, những điều hay, lẽ phải.
–Ơn quốc gia xã hội: là ơn đảm bảo, giữ gìn môi trường sống hoà bình, ổn định.
–Ơn chúng sinh, đồng bào: là ơn những người đã sản xuất ra của cải vật chất để cho chúng ta tồn tại, phát triển.

Không ai có thể nói rằng trong bốn ân này, anh ta chỉ chịu ân này còn ân khác thì không. Như trên đã trình bày, con người luôn tồn tại trong mối tương quan với các cá nhân khác, là tổng hoà của nhiều mối quan hệ nên nhất thiết phải chịu cả bốn ân này. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một bài viết ngắn, không cho phép có thể đi vào phân tích cả bốn ân này, nên, người viết chỉ tập trung vào chữ hiếu trong trường hợp đầu tức là hiếu với cha mẹ, ba trường hợp còn lại sẽ đề cập tới khi có điều kiện.

Nguồn gốc và ý nghĩa của ngày Lễ Vu Lan
Ngày lễ Vu Lan là dịp “nhắc nhở” các thế hệ con cháu chúng ta nhớ tới công ơn dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, ông bà, tổ tiên cũng như những đóng góp to lớn của các anh hùng dân tộc, những người có công với đất nước.

 

Ðạo Phật là đạo hiếu, lấy tình thương yêu con người (và cả muôn loài) làm đầu. Tình thương này bắt nguồn từ tình thương cha mẹ, sau đó mới mở rộng ra thành tình người, tình nhân loại. Chính vì vậy, trong các kinh điển của mình Ðức Phật dạy về đạo hiếu nhiều không kể xiết. Nào đời nay đã có hiếu. Nào kiếp trước cũng đã có hiếu. Nào hiếu về cung dưỡng cha mẹ. Nào hiếu về độ siêu cho cha mẹ…. Do đó, muốn tu theo Phật giáo phải lấy chữ hiếu làm đầu bởi vì kinh Phật đã dạy: “Phụng thờ cha mẹ là phụng thờ Ðức Phật”. Cụ thể hơn, Ðức Di Lặc đã có bài kệ rằng:

Trên nhà có hai pho tượng Phật
Thương cho người đời không biết mà.
Tượng ấy chẳng dùng vàng son phủ
Cũng chẳng phải gỗ mít tạc ra.
Tượng ấy chính là cha với mẹ
Chính là Di Lặc và Thích Ca
Nếu cúng dàng được hai tượng ấy
Còn phải cầu công đức đâu xa.

Và vì cha mẹ là người sinh ra ta, nuôi nấng dạy dỗ chúng ta từ thuở ấu thơ cho đến khi về già. Công lao đó của cha mẹ thật bao la, tựa non, tựa bể. Chính vì vậy, để phần nào đền đáp lại cái ơn nghĩa đó, chúng ta “Một lòng thờ mẹ, kính cha; Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Ở đây sở dĩ nói phần nào bởi vì theo kinh Phật: “Trên thế gian này, công ơn cha mẹ là điều to lớn nhất”. Chính Đức Phật đã từng nhiều lần dạy: “Này các Tỳ kheo, có hai người mà ta không thể trả ơn đó là chính là cha và mẹ”. Với ơn nghĩa sinh thành ấy, chúng ta dù có “trăm nghìn muôn kiếp tán xương róc thịt ra để phụng dưỡng cha mẹ cũng vẫn chưa đền đáp được”.

Nguồn gốc và ý nghĩa của ngày Lễ Vu Lan
Báo ân là phải đáp đền ơn đức cha mẹ sinh thành, dưỡng dục cho ta nên người.

 

 

 

Sự hiếu nghĩa của con cái đối với cha mẹ không chỉ được thể hiện trongsự cung phụng về vật chất mà còn trong lĩnh vực tinh thần. Cha mẹ cần tình cảm và sự chăm sóc của con cái: “Trẻ cậy cha, già cậy con”. Vì thế, bên cạnh việc lo chu đáo “miếng cơm, manh áo” cho cha mẹ, chúng ta cần phải “sớm viếng, tối thăm”, trò chuyện, vấn an cha mẹ để cha mẹ thật sự vui vẻ an hưởng tuổi già. Nhất là khi cha mẹ đau yếu, phải “rước thầy, đổi thuốc: hết lòng chăm sóc từ miếng ăn, nước uống, trên sắc mặt lúc nào cũng vui tươi, cầu cho bệnh chóng khỏi. Bổn phận làm con, làm được như thế, gọi là báo hiếu trong muôn một”. Cùng một quan điểm như vậy, từ hơn 2500 năm truớc Ðức Khổng Tử cũng đã từng dạy: “Ðời nay thấy ai nuôi dưỡng được cha mẹ thì khen là có hiếu. Nhưng chó, ngựa cũng được nuôi dưỡng. Vì thế nếu nuôi cha mẹ mà không kính trọng thì khác gì nuôi thú vật”. Hoặc như kinh Lễ cũng có đoạn viết: “Khi cha mẹ còn sống mà chỉ chăm chú vào việc làm giàu, không phụng dưỡng cha mẹ là không tròn đạo hiếu”. Ðức Khổng Tử còn dạy tiếp: “Có việc thì mình giúp, có rượu, thức ăn ngon mời cha mẹ là hiếu chăng? Giữ được sắc mặt vui vẻ khi ở chung với cha mẹ mới thật khó”.

Tuy nhiên, cũng đừng vì đặt quá chữ hiếu lên đầu mà chúng ta làm những điều “bất nhân, thất đức” hay hùa theo cha mẹ làm những điều ác, điều xấu để làm hại người khác. Hiếu như thế là “ngu hiếu”. Mà phải “Phát tâm học Phật, tu Phật rồi khuyên cha mẹ biết ăn chay niệm Phật, làm các phúc thiện thì mới có thể báo đền cân xứng với công sinh nuôi của cha mẹ như lời Phật đã dạy”. Bên cạnh đó, cũng phải sáng suốt để vừa hiếu thuận với cha mẹ lại vừa “lợi lạc, quần sinh”, vừa kế thừa và phát huy được những đức tính tốt của cha mẹ lại vừa biết khuyên can cha mẹ rời xa những điều không tốt, ấy mới là “chân hiếu”, là “trí hiếu”, là hiếu đễ thực sự như mọi người hằng ngưỡng mộ…

Tiếc thay, trong xã hội chúng ta hiện nay do những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường ít nhiều đã xuất hiện lối sống thực dụng, chạy theo lợi ích vật chất tầm thường mà quên đi những giá trị truyền thống của bản sắc văn hoá dân tộc, quên đi những nghĩa vụ thiêng liêng của con cái đối với cha mẹ. Phải thừa nhận rằng, thực tế vẫn còn có không ít những quan niệm về đạo hiếu thật đơn giản và lệch lạc.

Do đó, khi vận dụng vào cuộc sống đã không mang đầy đủ ý nghĩa đích thực của nó, biến đạo hiếu trở thành một thứ hình thức, câu nệ tầm thường, dẫn đến việc thực hành đạo hiếu chỉ còn là trách nhiệm, là nghĩa vụ mà không xuất phát lừ đáy lòng, từ trong tâm. Hoặc nếu không gượng ép thì cũng là thỉnh thoảng, không thường xuyên, mà nhiều khi còn mang tính thời điểm, cơ hội, sử dụng cha mẹ như những “công cụ” để mang lại lợi ích cho bản thân. Thật xót xa khi xã hội còn có những đứa con bất hiếu, những “nghịch tử” đang hàng ngày, hàng giờ ruồng rẫy cha mẹ, coi cha mẹ như gánh nặng bên mình.

Ấy vậy mà khi cha mẹ chết đi thì lại tổ chức ma chay linh đình những để người ngoài trông vào mà nghĩ đó là những đứa con “hiếu để”. Những “tấm gương” tày liếp đó, thiết nghĩ báo chí đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để lên án. Nhưng, dù có viết bao nhiêu đi chăng nữa cũng vẫn là chưa đủ nếu như chúng ta chưa hình thành đủ các chuẩn mực đạo đức cần thiết để có thể điều chỉnh được những hành vi “phi nhân tính” đó. Hay như bản thân mỗi con người không tự tu dưỡng, rèn luyện nhân cách, đạo đức để có thể có một cuộc sống lành mạnh, có ích, dời xa những cám dỗ của dục vọng…

Ðức Phật cũng chính là một tấm gương sáng về đạo hiếu. “Ðạo hiếu này tức như Ðức Thích Ca để phụ vương ở lại mà trốn vào rừng đi tu. Nhưng Ngài cố tu học cho đến thành Phật. Ðến nay người ta sùng bái Ngài mà sùng bái đến cả Tịnh Phạn vương. Ngôi vua nào tôn vinh, tràng viễn bằng”. Hay như khi Tịnh Phạn đại vương lâm chung. Ngài đã đứng ra lo liệu mọi việc, quỳ lạy trước vong linh cha rồi cung kính nghinh tiễn kim quan cha về nơi “an nghỉ cuối cùng” cho trọn đạo làm con. Như vậy, đã là tạo hiếu thì các đấng toàn năng, các bậc thánh hiền, hay người phàm trần cũng đều như nhau. Và dù có là Ðấng Giác Ngộ cao minh với quyền pháp vô biên hay một người dân bình thường nhất, thì với cha mẹ con cái bao giờ cũng vẫn là con cái, vì vậy, lo lắng hậu sự cho cha mẹ phải chăng là điều không cần phải bàn cãi gì thêm nhiều nữa.

Bấy nhiêu chưa đủ để nói lên tất cả những điều muốn nói của bản thân người viết cũng như của toàn xã hội, song, từ sự phân tích trên chúng ta cũng đã phần nào thấy được những ý nghĩa giáo dục cao cả của văn hoá Phật giáo trong tiến trình hình thành và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Nhân mùa báo hiếu chúng ta cũng nhận thức lại những ý nghĩa đúng đắn của ngày lễ Vu Lan để có những hành động thiết thực hơn, tích cực hơn cho gia đình và cho xã hội. Có làm được như vậy thì mới có thể tự giải thoát được cho mình để rồi giải thoát cho người khác.

Phát huy truyền thống nhập thế của Phật giáo Việt Nam, chúng ta nguyện tu tập theo gương hiếu đễ của người xưa để góp phần xây dựng một xã hội tốt lành, thực hiện “tốt đời, đẹp đạo”.

Xin được thay cho lời kết, bằng việc mượn lời của Ni sư Thích Ðàm Hà trong bài “Cảm nghĩ về chữ Hiếu trong đạo Phật”

Thân người gốc ở mẹ cha
Trải bao cay đắng cũng là vì con
Công ơn như biển, như non
Ðạo làm con phải lo tròn hiếu tâm
Báo đền trả nghĩa ân thâm
Những điều hiếu nghĩa trọng tâm nghĩ bàn
Người ta sống ở thế gian
Bao nhiêu hưởng thụ bấy nhiêu ơn nhờ
Ơn dân, ơn nước, ơn người,
Ơn thày, ơn bạn, ơn đời giúp ta.
Nguồn tin: buddhismtoday.com

Bí quyết làm thông mạch máu

Bất kể là nghiêm trọng đến mức nàocũng có thể làm thông mạch máu.
Bí quyết làm thông mạch máuKinh nghiệm bản thân của một người sống ở Luân Đôn, khi ông ấy đi Pakistan họp, đột nhiên bị đau ngực dữ dội, sau đó được Bác sĩ cho biết ba mạch máu của ông đã bị tắc nghẽn nghiêm trọng, cần phải làm phẫu thuật. Thời gian phẫu thuật là một tháng sau, trong thời gian đó, ông đã đến gặp một vị Bác sĩ Hồi giáo trị liệu theo phương pháp y học cổ truyền quốc gia.

Vị Hakim để cho ông ta tự mình làm một bài thuốc uống ở nhà, ông uống một tháng. Một tháng sau ông đến cùng một bệnh viện kiểm tra, phát hiện 3 mạch máu này rất sạch sẽ, chỗ vốn dĩ bị nghẽn đã hoàn toàn thông hết rồi. Ông là một tín đồ Hồi giáo rất thành tâm, nhằm giúp cho càng nhiều người được lợi ích, ông đã chia sẻ kinh nghiệm của mình trên mạng, hai tấm hình chụp mạch máu trước và sau của ông cũng đăng lên mạng, trong hình có thể thấy được sự khác biệt rõ ràng trước và sau khi điều trị bằng bài thuốc này, ngay cả người bình thường cũng có thể nhìn ra.

Nguyên liệu cần dùng như sau:

1 ly nước cốt chanh
1 ly nước cốt gừng
1 ly nước cốt tỏi
1 ly giấm táo

Cách làm:

1. Tỏi bóc vỏ, gừng gọt vỏ cắt miếng nhỏ, cho vào máy ép trái cây ép lấy nước, hoặc là cho vào máy xay sinh tố xay nhuyễn, sau đó dùng vải lọc lọc lấy nước cốt.

2. Đặt nồi nước cốt tỏi và gừng lên bếp, thêm nước cốt chanh và giấm, để lửa lớn nấu sôi, sau đó vặn lửa nhỏ lại nấu khoảng nửa tiếng, không cần đậy nắp, để cho nước bốc hơi lên, còn lại khoảng phân nửa nước cốt là được.

3. Sau khi nguội, thêm mật ông vào khuấy đều, có thể cần nhiều mật ong, chủ yếu là để cho nước cốt dễ uống.

4. Đem thành phẩm đựng vào trong bình thủy tinh có nắp, bỏ vào tủ lạnh.

Cách uống:

Mỗi ngày uống một muỗng trước bữa ăn sáng. Phần lớn người có thể trị tận gốc bệnh tim mạch. Cũng có thể làm thức uống, phòng chống bệnh tim mạch và cao huyết áp, phòng ngừa cảm cúm…

Sau khi uống một tháng đến bệnh viện kiểm tra lại, sẽ phát hiện mạch máu sạch sẽ, chỗ tắc nghẽn đã được thông hoàn toàn rồi.

Facebook.com/TheGioiTamLinhVoHinh

GHI CHÚ,Từ một đọc giả tên Trung BA:
Những người đang có bệnh XƠ GAN CỔ TRƯỚNG thì không nên dùng những gia vị kích thích này, rất nguy hiểm.

Bông Hồng Cài Áo – Thiền sư : Nhất Hạnh

Để dâng mẹ và để làm quà Vu Lan cho những người nào có diễm phúc còn mẹ.
Medford, Hoa Kỳ, tháng tám, 1962,
Nhất Hạnh

bí quyết trồng sen khủng tại nhà

Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không “lớn” lên được. Cằn cỗi , héo mòn. Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: Tai nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, bài thơ ca tụng tình mẹ bài nào cũng dễ, cũng hay. Người viết dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ. Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, lo âu…. sợ sệt lo âu một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chưa chắc chắn phải đến :

Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời !
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi.

Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Ðể dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi…

Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời.

Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt nam không ưa cách nói cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức :

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.

Ngon biết bao ! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lên ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay ? hay là tơ trời đâu la miên ?) trên trán nóng ta và than thở “khổ chưa, con tôi “, ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một, và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau. Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận.

Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chẩy ra . Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi được biết tình nhân loại, tình chúng sinh ; nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh ; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý thương yêu của tôn giáo vốn dạy về tình thương.

Ðạo Phật có đức Quan Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu. Ðạo Chúa có đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ Mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương tín ngưỡng và hành động thì không xa chi mấy bước.

Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother’s Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Ðông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng.

Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào; chúng tôi không có được cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan.

Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Ðừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: “trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!”. Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Ðòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Ðể mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Ðể khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: “Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!”

Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: ” Mẹ ơi, mẹ có biết không ?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười “Biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: “Mẹ có biết là con thương mẹ không ?” Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi ngừơi cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.

Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Kiền Liên và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương Tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận.

Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là con. Ðó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa thầy giáo hỏi rằng: “Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?” Tôi trả lời: “Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi”. Bây giờ thì tôi biết rằng: Con thương mẹ thì không phải “làm thế nào” gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi ” làm thế nào ” nữa!

Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt hại cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết mà thôi. Ðể mai này anh chị đừng có than thở rằng: Ðời ta không còn gì cả. Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.

Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Ðáng nhẽ chị tôi không đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu, người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi.

Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói: “Mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác”. Chị tôi gục đầu xuống mâm khóc. Chị nói: “Thôi con không lấy chồng nữa”. Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. “Cắt ái từ sở thân” là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự chọn lựa nào mà không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng qúi báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau.

Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: “Không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ!”. Tôi đã nói là tôi không khuyên răn gì hết — tôi không giảng luân lý đạo đức — rồi mà! Tôi chỉ nhắc anh: “Mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương“. Ðể chị đừng quên, để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn : Cũng không phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo anh một bông hoa hồng: để anh sung sướng, thế thôi.

Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh, như thế này. Chiều nay, khi đi học hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi: “Mẹ ơi, mẹ có biết không?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: “Biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: “Mẹ có biết là con thương mẹ không?” Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi, thì anh cũng hỏi một câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Và ngày mai mất mẹ, Anh sẽ không hối hận, đau lòng , tiếc rằng anh không có mẹ.

Ðó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Ðóa hoa mầu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi./-

Nhất Hạnh (1962)

A Rose for Your Pocket

Thich Nhat Hanh

 

The thought “mother” cannot be separated from that of “love”. Love is sweet, tender, and delicious. Without love, a child cannot flower, an adult cannot mature. Without love, we weaken, wither.

The day my mother died, I made this entry in my journal: “the greatest misfortune of my life has come !”. Even an old person, when he loses his mother, doesn’t feel ready. He too has the impression that he is not yet ripe, that he is suddenly alone. He feels as abandoned and unhappy as a young orphan.

All songs and poems praising motherhood are beautiful, effortlessly beautiful. Even songwriters and poets without much talent seem to pour their hearts into these works, and when they are recited or sung, the performers also seem deeply moved, unless they have lost their mothers too early even to know what love for mother is. Writings extolling the virtues of motherhood have existed since the beginning of time throughout the world.

When I was a child I heard a simple poem about losing your mother, and it is still very important for me. If your mother is still alive, you may feel tenderness for her each time you read this, fearing this distant yet inevitable event.

That year, although I was still very young
my mother left me,
and I realised that I was an orphan,

everyone around me was crying,
I suffered in silence…
Allowing the tears to flows,
I felt my pain soften.

Evening enveloped
Mother’s tomb,
the pagoda bell rang sweetly.
I realised that to lose your mother
is to lose the whole universe.

We swim in a world of tender love for many years, and, without even knowing it, we are quite happy there. Only after it is too late do we become aware of it.

People in the countryside do not understand the complicated language of city people. When people from the city say that mother is “a treasure of love”, that is already too complex for them. Country people in Vietnam compare their mothers to the finest varieties of bananas or to honey, sweet rice, or sugar cane. They express their love in these simple and direct ways. For me, a mother is like a “ba hu+o+ng” banana of the highest quality, like the best “ne^’p mo^.t” sweet rice, the most delicious “mi’a lau” sugar cane!

There are moments after a fever when you have a bitter, flat taste in your mouth, and nothing tastes good. Only when your mother comes and tucks you in, gently pulls the covers over your chin, puts her hand on your burning forehead (Is it really a hand, or is it the silk of heaven?), and gently whispers, “My poor darling!” do you feel restored, surrounded with the sweetness of maternal love. Her love is so fragrant, like a banana, like sweet rice, like sugar cane.

Father’s work is enormous, as huge as a mountain. Mother’s devotion is overflowing, like water from a mountain spring . Maternal love is our first taste of love, the origin of all feelings of love. Our mother is the teacher who first teaches us love, the most important subject in life. Without my mother I could never have known how to love. Thanks to her I can love my neighbours. Thanks to her I can love all living beings. Through her I acquired my first notions of understanding and compassion.

Mother is the foundation of all love, and many religious traditions recognise this and pay deep honour to a maternal figure, the Virgin Mary, the goddess Kwan Yin. Hardly an infant has opened her mouth to cry without her mother already running to the cradle. Mother is a gentle and sweet spirit who makes unhappiness and worries disappear. When the word “mother” is uttered, already we feel our hearts overflowing with love. From love, the distance to belief and action is very short.

In the West, we celebrate Mother’s Day in May. I am from the countryside of Vietnam, and I had never heard of this tradition. One day, I was visiting the Ginza district of Tokyo with the monk Thien An, and we were met outside a bookstore by several Japanese students who were friends of his. One discretely asked him a question, and then took a white carnation from her bag and pinned it on my robe. I was surprised and a little embarrassed. I had no idea what this gesture meant, and I didn’t dare ask. I tried to act natural, thinking this must be some local custom.

When they were finished talking (I don’t speak Japanese), Thien An and I went into the bookstore, and he told me that today was what is called Mother’s Day. In Japan, if your mother is still alive, you wear a red flower on your pocket or your lapel, proud that you still have your mother. If she is no longer alive, you wear a white flower. I looked at the white flower on my robe and suddenly I felt so unhappy.

I was as much an orphan as any other unhappy orphan; we could no longer proudly wear red flowers in our buttonholes. Those who wear white flowers suffer, and their thoughts cannot avoid returning to their mothers. They cannot forget that she is no longer there. Those who wear red flowers are so happy, knowing their mothers are still alive. They can try to please her before she is gone and it is too late. I find this a beautiful custom. I propose that we do the same thing in Vietnam, and in the West as well.

Mother is a boundless source of love, an inexhaustible treasure. But unfortunately, we sometimes forget. A mother is the most beautiful gift life offers us. Those of you who still have your mother near, please don’t wait for her death to say, “My God, I have lived beside my mother all these years without ever looking closely at her.”

Just brief glances, a few words exchanged-asking for a little pocket money or one thing or another. You cuddle up to her to get warm, you sulk, you get angry with her. You only complicate her life, causing her to worry, undermining her health, making her go to sleep late and get up early. Many mothers die young because of their children. Throughout her life we expect her to cook, wash, and clean up after us, while we think only about our grades and our careers. Our mothers no longer have time to look deeply at us, and we are too busy to look closely at her. Only when she is no longer there do we realise that we have never been conscious of having a mother.

This evening, when you return from school or work or, if you live far away, the next time you visit your mother, you may wish to go into her room and, with a calm and silent smile, sit down beside her. Without saying anything, make her stop working. Then, look at her for a long time, look at her deeply. Do this in order to see her, to realise that she is there, she is alive, beside you. Take her hand and ask her one short question to capture her attention, “Mother, do you know something?” She will be a little surprised and will probably smile when she asks you, “What, dear?” Keep looking into her eyes, smiling serenely, and say, “Do you know that I love you?” Ask this question without waiting for an answer. Even if you are thirty or forty years old, or older, ask her as the child of your mother. Your mother and you will be happy, conscious of living in eternal love. Then tomorrow, when she leaves you, you will have no regrets.

In Vietnam, on the holiday of Ullambana, we listen to stories and legends about the bodhisattva Maudgalyayana, and about filial love, the work of the father, the devotion of the mother, and the duty of the child. Everyone prays for the longevity of his or her parents, or if they are dead, for their rebirth in the heavenly Pure Land. We believe that a child without filial devotion is just artificial. But filial devotion also arises from love itself. Without love, filial devotion is just artificial. When love is present, that is enough, and there is no need to talk of obligation. To love your mother is enough. It is not a duty, it is completely natural, like drinking when you are thirsty. Every child must have a mother and it is totally natural to love her. The mother loves her child, and the child loves his mother. The child needs his mother, and the mother needs her child. If the mother doesn’t need her child, nor the child his mother, then this is not a mother, and this is not a child. It is a misuse of the words “mother” and “child”.

When I was young, one of my teachers asked me, “What do you have to do when you love your mother?” I told him, “I must obey her, help her, take care of her when she is old, and pray for her, keeping the ancestral altar when she has disappeared forever behind the mountain.” Now I know that the word “What” in his question was superfluous. If you love your mother, you don’t have to do anything. You love her; that is enough. To love your mother is not a question of morality or virtue.

Please do not think I have written this to give a lesson in morality. Loving your mother is a question of profit. A mother is like a spring of pure water, like the very finest sugar cane or honey, the best quality sweet rice. If you do not know how to profit from this, it is unfortunate for you. I simply want to bring this to your attention, to help you avoid one day complaining that there is nothing left in life for you. If a gift such as the presence of your own mother doesn’t satisfy you, even if you are president of a large corporation or king of the universe, you probably will not be satisfied. I know that the Creator is not happy, for the Creator arises spontaneously and does not have the good fortune to have a mother.

I would like to tell a story. Please don’t think that I am thoughtless. It could have been that my sister didn’t marry, and I didn’t become a monk. In any case, we both left our mother — one to lead a new life beside the man she loved, and the other to follow an ideal of life that he adored. The night my sister married, my mother worried about a thousand and one things, and didn’t even seem sad. But when we sat down at the table for some light refreshments, while waiting for our in-laws to come for my sister, I saw that my mother hadn’t eaten a bite. She said, “For eighteen years she has eaten with us and today is her last meal here before going to another family’s home to take her meals.” My sister cried, her head bowing barely above her plate, and she said, “Mama, I won’t get married.” But she married nonetheless. As for me, I left my mother to become a monk. To congratulate those who are firmly resolved to leave their families to become monks, one says that they are following the way of understanding, but I am not proud of it. I love my mother, but I also have an ideal, and to serve it I had to leave her — so much the worse for me.

In life, it is often necessary to make difficult choices. We cannot catch two fish at the same time: one in each hand. It is difficult, because if we accept growing up, we must accept suffering. I don’t regret leaving my mother to become a monk, but I am sorry I had to make such a choice. I didn’t have the chance to profit fully from this precious treasure. Each night I pray for my mother, but it is no longer possible for me to savour the excellent “ba hu+o+ng” banana, the best quality “ne^’p mo^.t” sweet rice, and the delicious “mi’a lau” sugar cane. Please don’t think that I am suggesting that you not follow your career and remain home at your mother’s side. I have already said I do not want to give advice or lessons in continuing to look into her eyes with a serene smile, tell her, “Do you know that I love you?” Ask her this question without waiting for an answer. Even if you are thirty, forty years old, or older, ask her simply, because you are the child of your mother. Your mother and you will both be happy, conscious of living in eternal love. And tomorrow when she leaves you, you will not have any regrets.

This is the refrain I give you to sing today. Brothers and sisters, please chant it, please sing it, so that you won’t live in indifference or forgetfulness. This red rose, I have already placed it on your lapel. Please be happy.

Thich Nhat Hanh (1962)

Tu hành không phải là buông bỏ, mà là để hiểu lẽ hoán đổi…

Một bữa nọ, hai thầy trò cao tăng ngồi nói chuyện với nhau:

Tu hành không phải là buông bỏ, mà là để hiểu lẽ hoán đổi…

Đệ tử: Thưa thầy, đạo Phật khuyên người ta buông bỏ mọi thứ đúng không?

Sư phụ: Không đúng!

Đệ tử: Rõ ràng có câu “buông bỏ tất cả” đấy thôi?

Sư phụ: “Buông bỏ tất cả” để làm gì?

Đệ tử: Đúng thế, đệ tử cũng thấy rất nghi ngờ! Đệ tử thấy Phật giáo luôn nhìn vấn đề tiêu cực. Nhiều người hỏi đệ tử: “Nếu mọi sự đều buông bỏ thì lấy đâu ra tiền? Quần áo? Mọi người đều không làm việc thì thế giới này sao có thể tồn tại?”

Sư phụ: Mọi sự buông bỏ thì dẫn đến sụp đổ, cái gì cũng không buông bỏ thì cũng dẫn đến sụp đổ.

Đệ tử: Như vậy phải làm thế nào?

Sư phụ: Thay thế và hoán đổi!

Đệ tử: Nhờ thầy chỉ rõ cho con!

Sư phụ: Con có thể kêu một người ăn mày cam tâm cho con số tiền đang nắm chặt trong tay họ không?

Đệ tử: Không thể được.

Sư phụ: Con có thể dùng hòn sỏi đổi lấy số tiền trong tay người ăn mày không?

Đệ tử: Con nghĩ không được.

Sư phụ: Tại sao?

Đệ tử: Vì tiền đáng giá hơn.

Sư phụ: Vậy nếu dùng vàng để đổi thì sao?

Đệ tử: Vậy thì được.

Sư phụ: Tại sao?

Đệ tử: Vì vàng đáng giá hơn.

Sư phụ: Vì thế, cách buông bỏ đơn giản nhất chính là hoán đổi. Nguyên nhân khiến người ta không buông bỏ là vì không giành được thứ tốt hơn. Dùng thức ăn chay thay cho thức ăn mặn, con sẽ buông bỏ được con dao mổ; dùng bố thí thay cho giành giật, con sẽ buông bỏ được lòng tham; dùng tín ngưỡng thay cho hư vô, con sẽ buông bỏ được nỗi trống rỗng; dùng trí tuệ thay cho ngu dốt, con sẽ buông bỏ được cố chấp; dùng chính niệm thay cho tạp niệm, con sẽ buông bỏ được ngông cuồng; dùng nhẫn nại thay cho báo thù, con sẽ buông bỏ được giận dữ; dùng yêu thương thay cho tham lam, con sẽ buông bỏ được đau tim. Tu hành không phải là buông bỏ, mà là để hiểu lẽ hoán đổi.

Theo SecretChina
Tinh Vệ biên dịch

Những loại hoa sen

Hoa sen là biểu tượng của sự thuần khiết. Theo kinh Phật, tâm hồn của con người khi sinh ra trong trẻo như hoa sen mọc trong bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Hoa sen vì vậy xuất hiện nhiều trong các công trình của Phật giáo trải từ ngoài hồ ao, cho đến các bức phù điêu, chạm khắc. Là một trong những nước châu Á theo Nho giáo và thiên nhiều về đạo Phật từ xưa, sen được coi là quốc hoa của Việt Nam.

bí quyết trồng sen khủng tại nhà

Với vẻ đẹp thanh khiết của mình, sen đã chiếm trọn trái tim của bao người Việt Nam.Loại sen chúng ta thường thấy ngoài đầm trồng để thu hoạch hạt, lá, hoa,… là giống sen Việt.

loại hoa sen, hoa súng  Sen Việt trắng thanh cao.
Sen Việt hồng giản dị, gần gũi được nhiều người ưu chuộng.
Sen Việt hồng giản dị, gần gũi được nhiều người ưu chuộng
bí quyết trồng sen khủng tại nhà
bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Toàn cảnh khu vườn trồng sen trong chậu

Sen Nhật là loại đắt nhất vì sự quý hiếm, khó nhân giống nhưng lại dễ chăm sóc, cũng có hai màu cho bạn lựa chọn.

bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Sen Nhật hồng

 

bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Sen Nhật cho hoa rất to với cánh hoa kép dày
bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Để đỡ được phần hoa phía trên, thân sen Nhật vì thế rất to, chắc khỏe
bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Khi hoa nở hết sẽ bung cánh thành hình mâm xôi rất đẹp.
bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Sen Nhật nở bung giữa nắng cuối hè
bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Sen Nhật nở bung giữa nắng cuối hè
bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Sen Cung Đình hồng lại khác biệt với cánh kép
loại hoa sen
Sen Cung Đình nhỏ nhắn dễ thương với đài hoa giống những chú sếu đang đứng ăn trên cánh đồng.

 

 

bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Loại sen này có phần cánh trắng phía trong và dần dần phớt hồng ra ngoài.

loại hoa sen

 

Tương tự sen Cung Đình hồng, sen Cung Đình trắng cũng là một loại hoa được vua chúa ngày xưa chọn tô điểm cung đình.loại hoa sen

loại hoa sen

 

 

 

Sen Thái còn được gọi sen Bách Diệp hay sen Quan Âm với hai màu trắng và hồng, đặc điểm nổi bật là có rất nhiều cánh nhỏ li ti bên trong.

bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Sen quan âm hồng hay còn có tên gọi khác là Bách Diệp hồng. Tên gọi Bách diệp mang nghĩa là ’nhiều cánh’
bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Bông hoa có nhiều lớp cánh nhỏ ở trong.
bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Bông hoa sen to như chiếc bát cỡ lớn.

loại hoa sen

bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Bách Diệp hồng ngạo nghễ vươn mình dưới nắng
bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Sen quan âm trắng (Bách Diệp trắng) có màu trắng ngà, cánh kép, dáng hoa thanh thoát.
bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Bách Diệp trắng có cánh mỏng và thanh thoát hơn loại sen trắng thường.

 

bí quyết trồng sen khủng tại nhà

Sen hồng Hồ Tây

bí quyết trồng sen khủng tại nhà
Sen Hồ Tây thơm đặc biệt dùng để ướp trà.

bí quyết trồng sen khủng tại nhà

Hoa sen từ lúc hình thành nụ bé xinh cho đến lúc nở là chúng ta mong ngóng, đợi chờ rất thú vị. Hoa sen nở và đẹp trong khoảnh khắc nhưng đời sen là vô tận chỉ cần trồng một lần và chăm sóc tốt đến mùa sau là sen lại lên xanh tốt. Trồng sen trong chậu không giống trồng ở ngoài đầm hồ đòi hỏi ta phải chăm sóc cẩn thận tránh sâu bệnh, sen sống trong bùn nhưng rất ưa sạch sẽ nếu để nước bẩn là sen sẽ thối rễ và chết ngay.

Để trồng được chậu sen đẹp, ta cần những bước sau:

– Bước 1: Tìm vị trí trồng sen có nhiều nắng và tránh gió mạnh.

– Bước 2: Chậu trồng sen sâu 60-70cm, rộng 60-70cm. Bùn sạch cho vào 2/3 chậu.

– Bước 3: Giống sen định trồng là loại sen cao thì trồng chậu cao, sen mini hoặc sen cung đình trồng chậu thấp có bề mặt rộng thì sẽ đẹp hơn. Sau khi mua giống về dùng tay vạch bùn sang hai bên, đặt cây sen vào giữa chậu khỏa bùn lấp lại và đổ đầy nước vào chậu.

– Bước 4: Hằng ngày phải thay nước mới cho sen bằng cách dùng vòi xả tràn. Sau 1 tháng sen đã quen chỗ ta mới bón phân thủy sinh mỗi tháng 1 lần.

Đầu tiên sen sẽ ra lá nằm trên mặt nước, một thời gian sau sẽ mọc lá thẳng đứng cũng là lúc sen sắp có hoa. Cứ một búp lá là có một nụ hoa nhỏ bên dưới, nụ sen lớn rất nhanh mỗi ngày cao lên khoảng 20cm. Nếu bạn trồng nơi có gió mạnh thì phải biết cách neo lá và nụ không bị nghiêng ngả, nếu bị động rễ sen sẽ không nở được. Thường xuyên bắt sâu và châu chấu cắn lá, vớt bỏ rong bèo, cắt bỏ lá úa, lá rách, lá già để có chỗ cho sen lên lá mới.

Hoa sen có quanh năm với khí hậu nắng nóng còn ở miền bắc có mùa đông thì sen sẽ ngủ đông. Sau Tết sẽ phát triển trở lại. Các bạn trồng bằng hạt sen cũng theo cách trên nhé nhưng không được vùi hạt quá sâu trong bùn.

Theo mình những thông tin này cũng tương đối đầy đủ rồi. Các bạn trồng sen hay bất kể một loại hoa nào thì cũng nên đặt cái tâm vào đó thành quả đạt được cũng xứng tầm các bạn ạ.”

Mỗi loài sen từ lúc gieo hạt đến lúc ra được những bông hoa đầu tiên lại đằng đẵng gần một năm trời, nếu thành công. Điều này đòi hỏi người trồng phải rất yêu hoa cũng như có độ tỉ mẩn và kiên nhẫn cao.